Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 150/2024/HS-ST

 TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 150/2024/HS-ST NGÀY 31/07/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2024, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 8, Tòa án nhân dân Quận 8 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 138/2024/TLST -HS ngày 28/5/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 252/2024/QĐXXST -HS ngày 16/7/2024, đối với bị cáo:

Đào Ngọc Anh V; giới tính: Nam, sinh ngày 15 tháng 3 năm 19, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 9 H, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Không có nơi cư trú ổn định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; tình độ học vấn: 11/12; con ông Đào Ngọc B và bà Tạ Thị A; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2023 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 55 phút, ngày 08/10/2023, Tổ công tác 363 Công an Thành phố H tuần tra đến trước số F P, Phường D Quận H, thì phát hiện Đào Ngọc Anh V đang điều khiển xe gắn máy biển số 59P2 -X có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trong túi xách màu đen (ngăn giữa) của V đang đeo trên người có 01 túi nylon in chữ “Sweet time” đựng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, V khai nhận là ma túy tổng hợp đang trên đường mang đi bán để hưởng tiền công. Ngoài ra, Công an còn tạm giữ của V 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 0934.694.X, 01 xe gắn máy biển số 59P2 -X và số tiền 3.100.000 đồng (ba triệu một trăm nghìn đồng). Sau đó, Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy, xác định V dương tính với Methamphetamine.

Tại kết luận giám định số 11259/KL-KTHS ngày 16/10/2023, Phòng K Công an Thành phố H kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon để trong 01 túi nylon có in chữ “Sweet time” được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đào Ngọc Anh V và hình dấu Công an P1, Quận H là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 24,6910g (hai bốn phẩy sáu chín một không gam), loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Đào Ngọc Anh V khai nhận: Bản thân Vũ nghiện ma túy, thường tìm mua ma túy tổng hợp của một người thanh niên tên T (không rõ lai lịch, địa chỉ) để sử dụng. Thời gian gần đây, do không làm ra tiền, biết T hay bán ma túy cho các con nghiện nên V nảy sinh ý định bán ma túy thuê cho T để kiếm tiền mua ma túy sử dụng. Vào khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 08/10/2023, V đang ở khu T, xã B, huyện B thì nhận được cuộc gọi của T thông qua mạng xã hội T1, T kêu V đi đến trước số A Đường H C, Phường D, Quận H nhận ma túy để đem đi bán. V thuê xe ôm chở đến đầu hẻm dừng xe, thanh toán tiền xe ôm rồi đi bộ vào trong hẻm gặp T (đang đứng ở bụi cây). T dặn V nhặt 01 gói ma túy tổng hợp được T để sẵn trên nền đất để đem giao cho một người thanh niên tên P (không rõ lai lịch, địa chỉ, T không cho số điện thoại liên hệ), P đang chờ nhận ma túy ở bụi cây ven sông gần cầu M – khu vực hẻm D P, Phường C, Quận H. Khi V đi giao ma túy, T cho một người nam thanh niên (không rõ lai lịch) điều khiển xe gắn máy hiệu AirBlade màu đen (không rõ biển số) theo sau quan sát. Nếu giao ma túy cho khách thành công, T sẽ trả công cho V số tiền 500.000 đồng bằng hình thức đưa tiền mặt. V đồng ý, nhặt gói ma túy bỏ vào ngăn giữa trong túi xách rồi đi bộ ra đường C, Phường D, Quận H gặp bạn (không rõ lai lịch) lấy lại xe gắn máy biển số 59P2 -X đã cho mượn trước đó và điều khiển xe đi giao ma túy. Khi V đang điều khiển xe đi đến trước số F P, Phường D, Quận H thì bị Tổ công tác 363 Công an Thành phố H kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên.

V khai nhận, đây là lần thứ hai V thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy giúp cho T, lần trước đó V được T trả công số tiền là 100.000 đồng.

Qua kiểm tra dữ liệu điện thoại tạm giữ của Đào Ngọc A1 V có thể hiện nội dung trao đổi mua bán ma túy.

Vật chứng tạm giữ trong vụ án:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi ký hiệu 11259 (2188/23) -Q8, chữ ký ghi tên Đào Ngọc Anh V, hình dấu Công an P1, Quận H; chữ ký ghi tên giám định viên Bùi Công D.

- 01 túi xách màu đen.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 0934694X của Đào Ngọc Anh V.

- 01 xe gắn máy hiệu “SUZUKI” màu đỏ đen, biển số 59P2 -X, số máy: CGA1ID202444, số khung: MH8DL11AZKJ202439. Qua xác minh, xe do Đào Ngọc A1 V đứng tên chủ xe và sử dụng làm phương tiện mua bán trái phép chất ma túy.

- Số tiền 3.100.000 đồng tạm giữ của Đào Ngọc Anh V, quá trình điều tra V khai nhận số tiền 100.000 đồng là tiền do T trả công cho V vào lần bán ma túy trước đó; số tiền 3.000.000 đồng là tiền do V làm nghề lái xe mà có.

Tại bản Cáo trạng số 140/CT-VKS-Q8 ngày 27/5/2024, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đã truy tố bị cáo Đào Ngọc A1 V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”, theo quy định tại Điểm i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

Tại phiên tòa:

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố; Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm i Khoản 2, Khoản 5 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 11 năm đến 13 năm tù; phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi ký hiệu 11259(2188/23) -Q8, chữ ký ghi tên Đào Ngọc Anh V, hình dấu Công an P1, Quận H; chữ ký ghi tên giám định viên Bùi Công D.

- 01 túi xách màu đen.

Đề nghị tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 0934694X.

- 01 xe gắn máy hiệu “SUZUKI”; biển số 59P2 -X, số loại: Satria; màu sơn: Đỏ Đen; số máy: CGA1ID202444; số khung: MH8DL11AZKJ202439; dung tích xilanh: 147cm3; loại xe: Hai bánh từ 50 -173cm3.

- Số tiền 100.000 (một trăm ngàn) đồng Đề nghị trả lại cho bị cáo số tiền 3.000.000 (ba triệu) đồng.

Bị cáo khai báo về hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã được tóm tắt như trên, không tự bào chữa, không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ Kết luận giám định số 11259/KL-KTHS ngày 16/10/2023 của Phòng K - Công an Thành phố H và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận:

Vào ngày 08/10/2023, tại trước số F P, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Đào Ngọc Anh V cất giấu 24,6910g (hai bốn phẩy sáu chín một không gam), là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, để mang bán cho người nghiện thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì lợi ích cá nhân vẫn cố ý thực hiện.

Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, tội phạm về ma túy gây tác hại lớn cho con người và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục, răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có, Tuy nhiên, lượng ma túy thu giữ của bị cáo lớn (24,6910 gam) nên đây là tình tiết cân nhắc khi Hội đồng xét xử quyết định hình phạt cho phù hợp với khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo.

[5] Bị cáo phạm tội nhằm thu lợi bất chính, nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi ký hiệu 11259 (2188/23) -Q8, chữ ký ghi tên Đào Ngọc Anh V, hình dấu Công an P1, Quận H; chữ ký ghi tên giám định viên Bùi Công D, là vật cấm lưu hành theo quy định, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy.

- 01 túi xách màu đen tạm giữ của bị cáo, dùng để đựng ma túy, không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 0934694X của Đào Ngọc Anh V, là phương tiện liên lạc dùng để mua bán ma túy, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

- 01 xe gắn máy hiệu “SUZUKI”; biển số 59P2 -X, số loại: Satria; màu sơn: Đỏ Đen; số máy: CGA1ID202444; số khung: MH8DL11AZKJ202439; dung tích xilanh: 147cm3; loại xe: Hai bánh từ 50 -173cm3, xe do Đào Ngọc Anh V đứng tên chủ xe, Vũ sử xe làm phương tiện mua bán trái phép chất ma túy, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Số tiền 3.100.000 đồng tạm giữ của bị cáo V, trong đó 100.000 đồng là tiền do T trả công cho bị cáo vào lần bán ma túy trước đó; số tiền 3.000.000 đồng là tiền do bị cáo làm nghề lái xe mà có. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng; số tiền 3.000.000 đồng còn lại, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với T là người giao ma túy cho bị cáo bán; người thanh niên do T cử đi theo dõi V và người tên P liên hệ mua ma túy từ T, do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có cơ sở để xử lý trong vụ án này, Cơ quan Điều tra Công an Q tiếp tục truy xét, có căn cứ xử lý sau.

Đối với việc V khai nhận đây là lần thứ hai bán trái phép chất ma túy. Do chỉ có duy nhất lời khai của V và không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh nên không đủ cơ sở để xử lý V với tình tiết định khung hình phạt “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm i Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Đào Ngọc A1 Vũ 11 (mười một) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2023.

2. Áp dụng Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Phạt bị cáo Đào Ngọc Anh V số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi ký hiệu 11259 (2188/23) -Q8, chữ ký ghi tên Đào Ngọc Anh V, hình dấu Công an P1, Quận H; chữ ký ghi tên giám định viên Bùi Công D.

- 01 túi xách màu đen.

3.2. Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 0934694X.

- 01 xe gắn máy hiệu “SUZUKI”; biển số 59P2 -X, số loại: Satria; màu sơn: Đỏ Đen; số máy: CGA1ID202444; số khung: MH8DL11AZKJ202439; dung tích xilanh: 147cm3; loại xe: Hai bánh từ 50 -173cm3.

- Số tiền 100.000 (một trăm ngàn) đồng.

3.3. Trả lại cho bị cáo Đào Ngọc A1 V số tiền 3.000.000 (ba triệu) đồng. (Biên bản giao - nhận tang tài vật ngày 31/7/2024)

4. Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 150/2024/HS-ST

Số hiệu:150/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:31/07/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về