Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 142/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 142/2022/HS-ST NGÀY 01/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 và 01 tháng 8 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 144/2022/QĐXXST - HS ngày 29 /6/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyn Đăng P (tên gọi khác: Nhỏ Đói), sinh năm:1993, tại: Lâm Đồng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Số B đường V, Phường N, Thành phố Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm vườn; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông: Nguyễn Đăng T, sinh năm: 1952 và bà: Dương Thị S, sinh năm: 1954; vợ: Lê Trần Khánh Vi, sinh năm: 1997 (chưa đăng ký kết hôn) ; có 01 con sinh năm: 2021; chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; tiền án:

+ Ngày 24/9/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 (mươi hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị can chấp hành xong án phạt tù ngày 29/4/2016.

+ Ngày 24/5/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 18/6/2020 chấp hành xong hình phạt tù và chấp hành 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 30/9/2018. Nhân thân:

+ Ngày 26/5/2008, bị Công an Phường 5, Đà Lạt xử phạt cảnh cáo về hành vi Đánh nhau.

+ Ngày 21/01/2009, bị Chủ tịch UBND phường 5, Đà Lạt áp dụng biện pháp giáo dục cấp xã trong thời hạn 06 tháng do có hành vi Đánh nhau.

+ Ngày 28/8/2017, bị Chủ tịch UBND phường 5, Đà Lạt áp dụng biện pháp giáo dục tại phường trong thời hạn 03 tháng do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 28/11/2017, bị can chấp hành xong thời hạn giáo dục.

+ Ngày 03/5/2022, bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt khởi tố bị can về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 25/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt.

2. Họ và tên: Nguyn Trung H, sinh năm: 2001, tại: Lâm Đồng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: 37C đường Đ1, Phường B, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Làm vườn; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông: Nguyễn Bá H, sinh năm: 1972 và bà: Nguyễn Thị Bích V, sinh năm: 1980; chức vụ, đảng phái, đoàn thể: Không; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 04/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Bích V, sinh năm: 1980 Địa chỉ: 37C đường Đ1, Phường B, Thành phố Đ1, tỉnh Lâm Đồng;

2. Anh Lê Trường G, sinh năm: 1990 Địa chỉ: 8B đường V, Phường N, Thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng;

- Người làm chứng: Bà Lê Thị T, sinh năm: 1972 Địa chỉ: Số 32 đường L, Phường N, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

- Người chứng kiến: Ông Hồ Văn P2, sinh năm: 1971 Địa chỉ: Số 42B đường H, Phường C, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

(Các bị cáo và bà V có mặt; anh G, bà T và ông P3 vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đăng P là đối tượng có 02 tiền án về tội Trộm cắp tài sản và Mua bán trái phép chất ma túy. Sau khi chấp hành án phạt tù về địa phương, P quen biết với Nguyễn Trung H là đối tượng sử dụng trái phép ma túy đá từ tháng 5/2021. Tối ngày 03/10/2021, sau khi được một đối tượng tên Tuấn (không rõ nhân thân, lai lịch) cho một gói ma túy đá, P mang gói ma túy này về nhà tại 39C Lâm Viên, Phường 5 - Đà Lạt cất giữ. Đến khoảng 10 giờ ngày 04/10/2022, khi P đang ở nhà thì có một người phụ nữ gọi điện hỏi mua ma túy đá của P. Do có sẵn gói ma túy mà Tuấn cho, P thỏa thuận bán gói ma túy này với người phụ nữ với giá 500.000 đồng rồi nhờ H mang ma túy đến giao tại khu vực Thác Cam Ly, phường 5 - Đà Lạt. H biết P bán ma túy cho người khác nhưng vẫn đồng ý điều khiển xe máy hiệu SH Mode biển số 49B1-778.25 mang gói ma túy đến khu vực thác Cam Ly, đoạn trước căn nhà số 72 Hoàng Văn Thụ, Phường 5 - Đà Lạt chờ giao cho người phụ nữ thì bị Cơ quan CSĐT Công an Đà Lạt kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng tang vật:

- 01 gói nylon màu trắng trong, một đầu có khóa dạng kẹp nhựa, có đường chỉ màu đỏ, bên trong có chứa chất dạng tinh thể màu trắng nghi là ma túy, phát hiện, thu giữ khi H đang cầm trên tay trái thả xuống đường ngay vị trí của H đứng, được niêm phong ký hiệu là M1;

- 01 gói nylon màu trắng trong, được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, nghi là ma túy, phát hiện, thu giữ trong túi quần bên phải H đang mặc được niêm phong ký hiệu là M2;

- 01 ống thủy tinh, là dụng cụ hút ma túy;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, bên trong có gắn sim số:

0325285795; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại phím bấm, bên trong có gắn sim số: 0924875943;

- 01 xe máy hiệu Honda SH Mode, biển số 49B1- 77825 (BL: 40-43) Quá trình điều tra còn thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia phím bấm màu đen có gắn sim số 0792385879 của Lê Trường Giang;

- 01 điện thoại di động hiệu IPHONE XS MAX có gắn sim số 0896855579 của Nguyễn Đăng P (BL: 71, 77).

Tại Kết luận giám định số 1315/GĐ-PC09 ngày 08/10/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể (M1) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,2203g, loại Methamphetamine; mẫu tinh thể (M2) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,0976g, loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy, nằm trong Danh mục: II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/8/2018 của Chính phủ (BL: 38-39).

Người liên quan: Bà Nguyễn Thị Bích Vân, sinh năm 1981, trú tại: 37C Đa P, phường 7 - Đà Lạt, là người cho Nguyễn Trung H mượn chiếc xe máy hiệu Honda SH Mode, biển số 49B1- 778.25 làm phương tiện đi lại. Quá trình điều tra xác định khi cho H mượn xe, bà Vân không biết H dùng làm phương tiện vận chuyển trái phép chất ma túy nên không có cơ sở xử lý đối với bà Vân. Bà Vân đã nhận lại chiếc xe trên và không yêu cầu gì thêm (BL: 110-111).

Tại bản cáo trạng số 139/CT-VKS ngày 27/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố các bị cáo Nguyễn Đăng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Nguyễn Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận vào ngày 04/10/2022, P có nhờ H mang một gói ma túy đến khu vực thác Camly, Phường 5, Thành phố Đà Lạt đển bán cho một người phụ nự (không rõ, nhân thân lai lịch) với giá 500.000 đồng. Khi H mang 01 gói ma túy đến khu vực thác cam ly chờ giao cho người phụ nữ đã liên lạc với P thì bị Công an kiểm tra hành chính phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác, các bị cáo không tắc mắc kH nại hì đối với bản cáo trạng và xin được giảm nhẹ hình phạt.thu giữnhư cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác; các bị cáo không thắc mắc, kH nại gì đối với cáo trạng truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Nguyễn Đăng P và Nguyễn Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm q khoản 2 Điều Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Đăng P từ 36 đến42 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H từ 24 đến 30 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy đã qua giám định; tịch thu tiêu hủy 01 ống thủy tinh, là dụng cụ hút ma túy; tịch thu bán sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu IPHONE XS MAX có gắn sim số 0896855579 của Nguyễn Đăng P; trả cho bị cáo H 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, bên trong có gắn sim số 0325285795 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại phím bấm, bên trong có gắn sim số 0924875943; trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Trường Giang 01 điện thoại di động hiệu Nokia phím bấm màu đen có gắn sim số 0792385879.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Đăng P và Nguyễn Trung H: Nguyễn Đăng P là đối tượng có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản và Mua bán trái phép chất ma túy. Tối ngày 03/10/2021, P được một đối tượng tên Tuấn (không rõ nhân thân, lai lịch) cho một gói ma túy đá rồi về nhà tại 39C Lâm Viên, Phường 5, Thành phố Đà Lạt cất giữ. Đến khoảng 10 giờ ngày 04/10/2022, P nhờ H mang ma túy đến giao tại khu vực Thác Cam Ly, Phường 5 - Đà Lạt. H biết P bán ma túy cho người khác nhưng vẫn đồng ý điều khiển xe máy hiệu SH Mode biển số 49B1-778.25 mang gói ma túy đến giao cho người phụ nữ. Khi H dừng xe trước căn nhà số 72 Hoàng Văn Thụ, Phường 5 - Đà Lạt ngồi chờ để giao ma túy thì bị Cơ quan CSĐT Công an Đà Lạt kiểm tra hành chính thì H ném từ tay trái ra ngay chiếc xe H đang ngồi 01 gói nylon màu trắng trong phát hiện bắt quả tang thu giữ 01 gói ma túy (được niêm phong M1), H và P đều khai nhận là mang đi bán cho P. Ngoài ra, còn thu giữ trong túi quần H đang mặc 01 gói ma túy (được niêm phong M2), H khai nhận là của H mua để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 1315/GĐ-PC09 ngày 08/10/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể (M1) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,2203g (không phẩy hai hai không ba gam), loại Methamphetamine; mẫu tinh thể (M2) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,0976g (không phẩy không chín bảy sáu gam), loại Methamphetamine.

[3] Xét thấy, các bị cáo Nguyễn Đăng P và Nguyễn Trung H đều đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đều sử dụng chất ma túy. Các bị cáo biết rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn thực hiện nhằm thu lợi bất chính để thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân. Hành vi của các bị cáo không chỉ vi phạm pháp luật về chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương mà còn là một trong những nguyên nhân góp phần gây ra những tệ nạn xã hội khác. Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa; lời khai của các bị cáo, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Nguyễn Đăng P và Nguyễn Trung H phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự như cáo trạng số 139/CT-VKS ngày 27/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, quá trình thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo không bàn bạc, phân công cụ thể. Xét vai trò, hành vi của từng bị cáo thì thấy, bị cáo Nguyễn Đăng P là người cung cấp ma túy để H trực tiếp đi giao cho ngưới khác; Nguyễn Trung H bản thân cũng sử dụng ma túy và khi P nhờ đi giao ma túy cho người khác thì thực hiện một cách tích cực mặc dù biết rõ là đi giao ma túy cho người khác. Do vậy, bị cáo P phải có mức án cao hơn bị cáo H là phù hợp.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Do các bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là phù hợp.

[6] Trong vụ án này, Nguyễn Đăng P khai nhận được một đối tượng tên Tuấn cho P một gói ma túy rồi P bán lại cho một người phụ nữ gói ma túy này. Tuy nhiên, P không biết nhân thân lai lịch của Tuấn cũng như người phụ nữ nên không có căn cứ xác minh, xử lý.

[7] Quá trình điều tra, Nguyễn Trung H khai nhận có mua của Nguyễn Đăng P 01 gói ma túy đá bị thu giữ khi bắt quả tang có khối lượng là 0,0976g với mục đích sử dụng vào tối ngày 03/10/2021. Tuy nhiên, P không thừa nhận hành vi bán gói ma túy này cho H, ngoài lời khai của H không có chứng cứ khác chứng minh nên không có cơ sở xử lý Nguyễn Đăng P đối với gói ma túy này. Do Nguyễn Trung H chưa có tiền án tiền sự và khối lượng ma túy chưa đủ định lượng nên Công an thành phố Đà Lạt đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Điều tra đã thu giữ tang vật gồm: 01 gói nylon màu trắng trong, một đầu có khóa dạng kẹp nhựa, có đường chỉ màu đỏ, bên trong có chứa chất dạng tinh thể màu trắng và 01 gói nylon màu trắng trong, được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, phát hiện, thu giữ trong túi quần bên phải H đang mặc. Qua giám định đếu xác định là chất ma túy, là chất cấm lưu hành nê tịch thu tiêu hủy. Thu giữ 01 ống thủy tinh, là dụng cụ hút ma túy, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Thu giữ của bị cáo H 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, bên trong có gắn sim số 0325285795 và 01 điện thoại di động hiệu IPHONE XS MAX có gắn sim số 0896855579 của Nguyễn Đăng P, là phương tiện liên lạc trao đồi mua bán ma túy nên tịch thu bán sung Ngân sách Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại phím bấm, bên trong có gắn sim số 0924875943 của bị cáo H và 01 điện thoại di động hiệu Nokia phím bấm màu đen có gắn sim số 0792385879 của Lê Trường Giang, không liên quan đến việc giải quyết vụ án và thi hành án nên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

Riêng chiếc xe máy hiệu Honda SH Mode, biển số 49B1- 778.25, quá trình điều tra đã thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Nguyễn Thị Bích Vân, bà Vân không có ý kiến, yêu cầu gì nên không đề cập xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đăng P và Nguyễn Trung H phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng P 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/5/2022.

1.2. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a và c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 và 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy tang vật gồm:

- 01 (một) hộp giấy được niêm phong có chữ ký họ tên của Phạm Thị Dung, Nguyễn Văn Chiến, “Vũ Trần Y Vân” và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng”. Bên trong có chứa: bao gói vật chứng trước khi giám định và mẫu vật hoàn lại sau khi giám định: M1:14,0g, M2: 110,6g.

- 02 (hai) phong bì được niêm phong có chữ ký họ tên của Phạm Thị Dung, Nguyễn Văn Chiến, “Vũ Trần Y Vân” và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng”. Bao gồm một phong bì đựng bao gói vật chứng trước khi giám định và một phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau khi giám định: 8,0868g.

- 01(một) túi nilon màu trắng trong, bên trong có chứa 22 túi nilon màu trắng trong, dạng túi Zip, có khóa dạng kẹp nhựa, có đường chỉ màu đỏ, có kích thước khoảng 4x6cm, bên trong 22 túi này không chứa gì. Được niên phong vào một phong bì có dòng chữ “túi đựng 33 túi Zip trong phong bì này tôi dùng để đóng gói cần sa” có chữ kí và họ tên của Trần Thị Minh Hương, Hoàng văn Bộ, Đặng Quốc Khánh, Nguyễn Văn Thắng và Ngô Thị Minh Sinh.

- 01 (một) túi dạng túi đeo chéo màu đen.

2.2. Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước:

- 01(một) điện thoại di động hiệu Iphone 6Splus, màu vàng, bên trong có gắn sim số 0906.857.995 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu trắng (đã được niêm phong, không kiểm tra chất lượng).

2.3. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước cố tiền 800.000đ (tám trăm ngàn đồng) của bi cáo Hữu và 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) của bị cáo Hương (theo Giấy nộp tiền ngày 23/3/2022 của Ngân hàng Agribank)

2.4. Trả lại cho bị cáo Hữu 01(một) căn cước công dân mang tên Đỗ Viết Hữu và bị cáo Hương 01(một) căn cước công dân mang tên Trần Thị Minh Hương;

2.5. Giao cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Cub 50, màu xanh, biển số 49AA-010.51 để tiếp tục điều tra, xác minh làm rò và xử lý theo quy định.

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 23/3/2023 và ngày 26/4/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục Pc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 142/2022/HS-ST

Số hiệu:142/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về