Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 141/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 141/2021/HS-ST NGÀY 10/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10 tháng 11 năm 202 ltại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 115/2021/HSST, ngày 05 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn G; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1988; Nơi sinh: Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT và cho ở: khu phố 3, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: không; Cha: Lê Văn T (sinh năm 1964 đã chết), Mẹ: Lê Thị Kim L (sinh năm 1965) trú tại khu phố 3, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Anh, chị, em ruột: có 05 người, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1992; Vợ: Phạm Thị Ngọc P (sinh năm 1988) đã ly hôn; Con: có 01 người sinh năm 2009; Tiền án: 02 tiền án:

- Ngày 02/6/2015 bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/8/2015.

- Ngày 28/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 7 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2021.

* Quá trình hoạt động của bản thân bị can:

Ngày 07.11.2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T ra Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 12 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong Quyết định ngày 08.11.2013.

Tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 11.8.2021 đến ngày 11.12.2021 hiện bị can đang tại ngoại ở khu phố 3, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 06.7.2021 Lê Văn G, sinh năm 1988, trú tại khu phố 3, thị trấn P, huyện T đi đến phòng số 4 nhà trọ Thông Hồng tại thôn L1, xã H, huyện T do Vương Đức C thuê trọ để cùng sử dụng ma túy với C. Trong lúc sử dụng ma túy thì Nguyễn V (Tý Thể), sinh năm 1978 trú tại khu phố X1, thị trấn P, huyện T gọi điện thoại cho C hỏi mua 100.000 đồng ma túy đá, C trả lời không có ma túy để bán, sau đó C nói với G “Tý Thể (V) nhờ mua 100.000 đồng ma túy đá bạn mua giúp nó luôn” rồi cả hai ra trước phòng trọ đứng. Cùng lúc này Nguyễn V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM biển số 86B1 - 026.49 (xe V mượn của Nguyễn Thị A ) đến phòng trọ của C, do bận công việc nên C điều khiển xe mô tô bỏ đi. G và V đứng nói chuyện một lúc thì G nhờ V chở sang Hòa Phú có công việc, trên đường đi đến gần khu vực cầu Sông Lũy thì V nói “bạn lấy trong túi quần trước của mình 100.000 đồng” G đưa tay vào túi quần của V lấy ra 100.000 đồng rồi bảo V chở đến Trường tiểu học Hòa Phú. Đến nơi G xuống xe nói với Vũ đứng chờ rồi đi bộ vào trong hẻm gặp một người thanh niên không rõ lai lịch hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá (có 100.000 đồng của V), người thanh niên giao cho G 02 gói ma túy đá chứa trong 02 gói nylon gồm 01 gói lớn và 01 gói nhỏ được hàn kín. G giấu ma túy vào trong người rồi đến nơi V đang chờ nhờ V chở về, trên đường về đến gần Trường Võ Thị Sáu, thị trấn P, G lấy gói ma túy đá nhỏ trị giá 100.000 đồng nhét vào túi quần trước của V. Khi V chở G đến khu vực trước Gara Long Nhí thuộc thôn L1, xã Hòa Minh, huyện T lúc khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện T phối hợp với Công an xã H tuần tra, phát hiện bắt quả tang.

Thu giữ trên tay trái của Lê Văn G 01 gói nylon không màu được nẹp kín, kích thước khoảng 02cm x 02cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, G khai nhận là ma túy đá của G cất giấu nhằm mục đích để bán và sử dụng (được niêm phong ký hiệu số 01); 01 điện thoại di động hiệu Vi Vo màu trắng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải Nguyễn V 01 gói nylon không màu được hàn kín, kích thước khoảng 1,5cm x 1,5cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, V khai nhận đây là ma túy đá của V vừa mua của G để sử dụng (được niêm phong ký hiệu số 02); 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM biển số 86B1 - 026.49 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh.

Tại bản kết luận giám định số 895/KLGĐ-PC09 ngày 13.7.2021 của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

+ Mẫu M1 (được niêm phong ký hiệu số 01) gửi giám định khối lượng 0,3376 gam là Methamphetamine.

+ Mẫu M2 (được niêm phong ký hiệu số 02) gửi giám định khối lượng 0,0576 gam là Methamphetamine.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T: Vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 127/CT-VKS-TP ngày 28/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn G phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Áp dụng: Điểm q khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tuyên phạt bị cáo từ 08 năm đến 09 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Đối với Nguyễn Vũ đã mua ma túy đá của bị cáo G để sử dụng nhưng hành vi không cấu thành tội phạm, Cơ quan cảnh sát điều tra đã có công văn chuyển cho Công an huyện T để xử lý vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.

Riêng người thanh niên đã bán ma túy đá cho bị cáo G, hiện không rõ lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi của Vương Đức C rủ bị cáo G đến phòng trọ của C sử dụng ma túy nhưng không bị phát hiện bắt quả tang, không thu giữ được tang vật chứng của vụ án nên không có căn cứ để xử lý C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, Cơ quan điều tra đã sao trích hồ sơ chuyển về Công an thị trấn p xử lý vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.

Về xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra đã chuyển vào kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện T: 01 gói nylon không màu, được nẹp kín, kích thước khoảng (02 x 02)cm và 0,2805 gam mẫu M1 còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 895/1 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 gói nylon không màu, được hàn kín, kích thước khoảng (1,5 x 1,5)cm đã cắt lấy mẫu: Được niêm phong trong phong bì dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 895/2 co chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận (trong quá trình giám định mẫu M2 đã được phân tích hết).

Đối với 01 điện thoại di động hiệu ViVo màu trắng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo Lê Văn G đã chứng minh G sử dụng liên lạc hàng ngày không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo G nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu SYM biển số 86B1 - 026.49 đã chứng minh chủ sở hữu là Nguyễn Thị A, sinh năm 1954, trú tại thôn 1, xã Phước Thể, huyện T cho Nguyễn V mượn làm phương tiện đi lại, A không biết Vu sử dụng xe mô tô đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Thị A. Điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh thu giữ của Nguyễn V, Cơ quan điều tra đã trả lại cho V là phù hợp Toàn bộ mẫu vật được hoàn lại sau giám định gồm: Các đoạn ống nhựa và 0,4237 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 720, đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện T: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo G không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn G thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như nội dung bản Cáo trạng số 127/CT-VKS-TP, ngày 28/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố. Cụ thể bị cáo khai nhận: Sau khi đến phòng số 4 nhà trọ Thông Hồng tại thôn Ll, xã H, huyện T gặp C cùng nhau sử dụng ma túy. Trong lúc sử dụng ma túy thì V gọi điện thoại cho C hỏi mua 100.000 đồng ma túy đá, C trả lời không có ma túy để bán, sau đó C nói với bị cáo là “V nhờ mua 100.000 đồng ma túy đá bạn mua giúp nó luôn”. Cùng lúc này V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM biển số 86B1 - 026.49 đến phòng trọ của C gặp bị cáo G, bị cáo G và Vũ đứng nói chuyện một lúc thì bị cáo G nhờ V chở sang Hòa Phú nói đi công việc, trên đường đi thì V nói với bị cáo lấy trong túi quần trước của V 100.000 đồng, bị cáo G đua tay vào túi quần của V lấy ra 100.000 đồng rồi bảo V chở đến Trường tiểu học Hòa Phú. Đến nơi bị cáo G xuống xe rồi đi bộ một mình vào trong hẻm gặp một người thanh niên hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá, người thanh niên giao cho bị cáo 02 gói ma túy đá chứa trong 02 gói nylon gồm 01 gói lớn và 01 gói nhỏ được hàn kín. Bị cáo giấu ma túy vào trong người rồi đến chỗ V nhờ V chở về, trên đường về bị cáo lấy gói ma túy đá nhỏ trị giá 100.000 đồng nhét vào túi quần trước của V. Khi V chở bị cáo đến khu vực trước Gara Long Nhí thuộc thôn L1, xã H, huyện T lúc khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện T phối hợp với Công an xã H tuần tra, phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo G phù hợp với lời khai của Nguyễn V người mua ma túy đá của bị cáo để sử dụng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ các tang vật chứng và kết quả giám định chất ma túy, đủ chứng cứ xác định: Bị cáo G đã 01 lần, bán 01 gói ma túy đá cho Nguyễn V thu lợi 100.000 đồng Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Đây là vụ án “Mua bán trái phép chất ma tuý”, xảy ra vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06.7.2021 tại thôn L1, xã H huyện T do bị cáo Lê Văn G đã 01 lần, bán 01 gói ma túy đá cho Nguyễn V thu lợi 100.000 đồng và đang tàng trữ 0,3376 gam Methamphetamine để bán và sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang như đã phân tích trên.

Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội, đây thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình hình phạt quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Vì vậy, Cáo trạng số 127/CT-VKS-TP ngày 28/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Lê Văn G về tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận biết rõ hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, gây nguy hiểm cho xã hội; bị cáo G ý thức rõ tác hại của ma túy và đã bị xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy nay tiếp tục tàng trữ ma túy để sử dụng và bán cho con nghiện, chứng tỏ bị cáo đã xem thường pháp luật nên cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cũng cần xem xét giảm nhẹ 01 phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với Nguyễn V đã mua ma túy đá của bị cáo G để sử dụng nhưng hành vi không cấu thành tội phạm, Cơ quan cảnh sát điều tra đã có công văn chuyển cho Công an huyện T để xử lý vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.

Riêng người thanh niên đã bán ma túy đá cho bị cáo G, hiện không rõ lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi của Vương Đức C rủ bị cáo G đến phòng trọ của C sử dụng ma túy nhưng không bị phát hiện bắt quả tang, không thu giữ được tang vật chứng của vụ án nên không có căn cứ để xử lý C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, Cơ quan điều tra đã sao trích hồ sơ chuyển về Công an thị trấn P xử lý vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói nylon không màu, được nẹp kín, kích thước khoảng (02 x 02)cm và 0,2805 gam mẫu M1 còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 895/1 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật cấm, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 gói nylon không màu, được hàn kín, kích thước khoảng (1,5 x 1,5)cm đã cắt lấy mẫu: Được niêm phong trong phong bì dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 895/2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận (trong quá trình giám định mẫu M2 đã được phân tích hết) nên không xem xét xử lý.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu ViVo màu trắng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo G đã chứng minh bị cáo sử dụng liên lạc hàng ngày không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho G là phù hợp.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu SYM biển số 86B1 - 026.49 đã chứng minh chủ sở hữu là Nguyễn Thị A, sinh năm 1954, trú tại thôn 1, xã Phước Thể, huyện T cho Nguyễn V mượn làm phương tiện đi lại, A không biết Vũ sử dụng xe mô tô đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Thị A. Điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh thu giữ của Nguyễn V, Cơ quan điều tra đã trả lại cho V là phù hợp.

Đối với số tiền 100.000đ bị cáo thu lợi từ việc bán ma túy cho V nên buộc bị cáo phải nộp lại để sung quỹ nhà nước.

[6] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện T:

Hội đồng xét xử thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về áp dụng pháp luật, mức hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên ghi nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn G phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm q khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Bị cáo Lê Văn G 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

[2] Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói nylon không màu, được nẹp kín, kích thước khoảng (02 x 02)cm và 0,2805 gam mẫu M1 còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 895/1 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/10/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T) Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 100.000đ để sung quỹ nhà nước

[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn G phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 141/2021/HS-ST

Số hiệu:141/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về