Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 140/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 140/2022/HSPT NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý số 490/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị Ng, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 120/2021/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo: Nguyn Thị Ng, sinh năm 1978, tại Điện Biên; giới tính: Nữ; nơi cư trú: Đội 4, xã Noong L, huyện Điện B, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Đức B và con bà Nguyễn Thị L1; có chồng là Nguyễn Đình H và có 03 con (sinh năm 1996, 2000 và 2009); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/8/2019 đến nay; hiện đang tạm giam tại Trại giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Ng do Tòa án chỉ định: Luật sư Chu Huy H1 - Văn phòng luật sư Chu Đ, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Ng do bị cáo mời: Luật sư Phạm Gia L2 - Văn phòng luật sư Hội Tụ Trí Tuệ, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

* Trong vụ án còn có: Bị cáo Trịnh Trần D, sinh năm 1983, tại Thanh Hóa; giới tính: Nam; nơi cư trú: Phòng 116-D6, tập thể 781, phường Khương Tr, quận Thanh X, thành phố Hà Nội không có kháng cáo, không bị kháng nghị; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 06/8/2019, tổ công tác của Công an quận Nam Từ Liêm phối hợp với Công an phường Trung Văn làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba đường gom đại lộ Thăng Long - Lê Trọng Tấn (thuộc địa bàn xã An Khánh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội), phát hiện Trịnh Trần D đang xách 01 ba lô màu đỏ đen đi xuống từ xe ô tô khách Phong Hiền (BKS 26B- 006.82), có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, lập biên bản sự việc và thu giữ của D 01 balo màu đỏ đen, kích thước (44x28x13)cm bên trong có: 01 gói hình chữ nhật bên ngoài quấn băng dính màu trắng, bên trong quấn băng dính màu đen kích thước (15x14x7)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 gói hình chữ nhật bên ngoài quấn băng dính màu trắng, bên trong là túi nilon trên bề mặt ghi chữ GUANYUYIN kích thước (15x14x7)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu vàng được dán kín trên bề mặt, có in chữ GUANYUYINWANG kích thước (30x15x7)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng được buộc bằng dây cao su, bên trong có gói giấy màu vàng hình chữ nhật, trên bề mặt có in hình 02 con sư tử và quả cầu có kích thước (13x9x2,5)cm. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của D 01 điện thoại Samsung J400 màu đen, gắn 02 sim (số thuê bao 0386133210 và 0843282886).

Tại Kết luận giám định số 5176 ngày 15/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu vàng (bên ngoài được quấn băng dính màu trắng và màu đen, ký hiệu M1), có khối lượng 960,50gam là ma tuý loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu vàng (bên ngoài được quấn băng dính màu trắng, ký hiệu M2), có khối lượng: 976,01gam là ma tuý loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu vàng (ký hiệu M3), có khối lượng 905,91gam là ma tuý loại Methamphetamine; 01 bánh chất bột màu trắng, kích thước (13x9x2,5)cm, bên ngoài được gói bằng giấy màu vàng và nilon màu trắng (ký hiệu M4), có khối lượng 332,18gam là ma tuý loại Heroine.

Quá trình điều tra, Trịnh Trần D khai nhận: Năm 2007, D quen biết Ngô Quốc H2 khi chấp hành án tại Trại giam Thanh Phong - Bộ Công an. Sau khi ra tù, D và H2 vẫn liên lạc với nhau. Khoảng 17 giờ ngày 05/8/2019, H2 gọi điện thoại từ số máy 0966216663 đến số máy 0386133210 của D, hẹn đến khu vực cổng vào bến xe khách Mỹ Đình để nhờ công việc. D bắt xe ôm từ nhà đến điểm hẹn vào khoảng 18 giờ cùng ngày, H2 lái xe ô tô nhãn hiệu Zotyez 8 màu trắng (BKS 30F-331.06) đến. D lên xe và ngồi ghế phụ, H2 đưa 01 túi nilon màu trắng bên trong có 685.000.000 đồng, bảo D cầm tiền lên Điện Biên đưa cho Nguyễn Thị Ng rồi cầm “đồ” về; H2 nhắn tin cho D số máy 0787175239 của Ng và đưa cho D 1.000.000 đồng để đi đường.

Sau đó, D đi xe khách từ bến xe Mỹ Đình lên Điện Biên. Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 06/8/2019, D đến bến xe Điện Biên rồi gọi điện thoại cho Nguyễn Thị Ng (số máy 0787175239); Ng bảo D gọi điện vào số máy 0766054419 của Phạm Xuân Q là em rể Ng để đón; D làm theo và khoảng 10 phút sau, anh Phạm Xuân Q điều khiển xe ô tô đến và chở D về nhà Ng ở đội 4, xã Noong L, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. D đi vào phòng khách, còn Q vào phòng bếp nằm ngủ. D gọi điện thoại cho H2 thông báo đã đến nhà Ng, thì H2 bảo D đưa tiền cho Ng. Sau khi đếm tiền xong, Ng bảo D chờ rồi điều khiển xe máy nhãn hiệu Air Blade màu đen đi khoảng 15 phút thì quay về, đưa cho D 01 ba lô màu đỏ đen (bên trong đựng ma tuý). D điện thoại cho H2 báo đã lấy được hàng và hẹn đón ở chân cầu vượt Phú Đô, Hà Nội.

Sau đó, Ng tiếp tục nhờ anh Q chở D ra bến xe Điện Biên để D về Hà Nội; D cầm ba lô màu đỏ đen đựng ma tuý để ghế sau xe ô tô của anh Q. Tại bến xe Điện Biên, D bắt xe khách và khi đi đến cây xăng thuộc thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình thì D xuống xe, rồi lại tiếp tục đi xe khách Phong Hiền (BKS 26B-006.82) để về bến xe Mỹ Đình. Khi xe khách đi đến đường Láng - Hoà Lạc, D gọi điện thoại cho H2 và hẹn đón ở Thiên Đường Bảo Sơn thuộc xã An Khánh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi xe khách đi đến ngã ba đường gom Đại lộ Thăng Long giao với đường Lê Trọng Tấn, D xuống xe khách thì bị kiểm tra, phát hiện và thu giữ vật chứng.

Trước đó, D đã 02 lần gặp Ng. Lần thứ nhất vào ngày 16/7/2019, D cùng H2 đi xe khách lên Điện Biên; vợ chồng Ng đi xe máy ra bến xe gặp và nói chuyện riêng với H2, rồi H2 và D lại trở về Hà Nội. Lần thứ hai vào ngày 31/7/2019 (theo yêu cầu của H2), D đi một mình lên nhà Ng chơi để quen đường; anh Q đã lái xe ô tô ra bến xe Điện Biên đón D về nhà Ng; rồi anh Q lại đưa D từ nhà Ng ra bến xe Điện Biên để D bắt xe về Hà Nội.

Khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị Ng tại Đội 4, xã Noong L, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng nhạt có 02 sim (sim thứ nhất có số thuê bao 0377966250, sim thứ hai có số thuê bao 0981667347); 01 điện thoại Samsung Galaxy J4 màu vàng nhạt có 02 sim (sim thứ nhất có số thuê bao 0858574969 và sim thứ hai có số thuê bao 0965736257).

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Ng khai nhận: Qua mối quan hệ xã hội, Ng quen biết Trịnh Trần D vào khoảng tháng 7/2019. D có đến nhà Ng nhiều lần để hỏi mua nhãn quả, giữa hai người có quan hệ tình cảm với nhau. Khoảng 06 giờ ngày 06/8/2019, D có đến nhà Ng chơi một lát rồi ra về. Ng không nhờ anh Q ra bến xe Điện Biên đón D, Ng không sử dụng số điện thoại 0787175239, Ng không quen biết ai là Ngô Quốc H2, Ng không mua bán ma tuý với H2 hoặc D, không nhận tiền từ D và không giao ba lô màu đỏ đen cho D.

Anh Phạm Xuân Q khai nhận: Anh Q làm nghề sửa xe máy, thỉnh thoảng có dùng xe ô tô của mình (xe Kia Morning BKS 27A-049.73) để kinh doanh chở khách thuê theo hợp đồng. Khoảng hơn 05 giờ ngày 06/8/2019, chị vợ của anh Q là Nguyễn Thị Ng gọi điện thoại từ số 0377966250 đến điện thoại của anh Q số 0766054419, nhờ ra anh Q bến xe Điện Biên đón Trịnh Trần D. Sau đó, anh Q nhận được điện thoại từ số máy 0386133210 của D hỏi đi đến đâu rồi. Khoảng 10 phút sau, anh Q điều khiển xe ô tô ra đến bến xe Điện Biên để đón D về nhà Ng, nhìn thấy D cầm theo 01 túi nilon màu trắng. Tại nhà Ng, D và Ng nói chuyện với nhau, còn anh Q vào giường chỗ phòng bếp nằm ngủ. Khoảng 30 phút sau, Ng gọi anh Q dậy, chở khách ra bến xe Điện Biên để về Hà Nội; anh Q nhìn thấy D xách theo 01 chiếc ba lô màu đỏ đen và để ở hàng ghế phía sau xe, còn D ngồi ở ghế phụ. Anh Q không biết gì về việc Ng và D mua bán ma tuý. Trước đó khoảng một tuần, anh Q cũng ra bến xe Điện Biên đón và chở D đến nhà Ng chơi, rồi anh Q lại chở D từ nhà Ng ra bến xe để về Hà Nội.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho anh Q nhận dạng đối với D và chiếc ba lô do D sử dụng; anh Q đã nhận dạng được Trịnh Trần D (ảnh số 3) là người đã được anh Q chở đến nhà Nguyễn Thị Ng, vào các ngày 31/7/2019 và ngày 06/8/2019; anh Q nhận dạng được chiếc ba lô màu đỏ đen (ảnh số 3) mà D đã xách từ nhà Nguyễn Thị Ng đi ra, để lên ghế sau xe ô tô và anh Q đã đưa D và chiếc túi này ra bến xe Điện Biên.

Cơ quan điều tra tiến hành cho D nhận dạng Nguyễn Thị Ng, D đã nhận dạng được Ng (ảnh số 2) là người nhận 685.000.000 đồng do D giao, rồi Ng đưa cho D 01 ba lô màu đỏ đen (bên trong có ma túy) để D mang về cho H2. Kết quả đối chất giữa D và Ng, hai bên vẫn giữ nguyên lời khai của mình.

Căn cứ bản kê chi tiết cuộc gọi đến, gọi đi và tin nhắn thu giữ số máy 0386133210 và số 0943282886 của Trịnh Trần D; số 087175239, 0377966250, 0981667347, 0858574969 và 0965736257 của Nguyễn Thị Ng xác định:

Từ 05 giờ 30 phút ngày 23/7/2019 đến 05 giờ 26 phút ngày 06/8/2019, D liên lạc với số máy 0787175239 của Ng tổng số 09 cuộc.

Từ ngày 22/7/2019 đến ngày 06/8/2019, D liên lạc với các số máy 0973969272, 0966216663, 0933818886 và 0766072209 của H2 tổng số 95 cuộc.

Từ ngày 31/7/2019 đến ngày 06/8/2019, số máy 0787175239 của Ng liên lạc với số máy 0966216663 của H2 tổng số 17 cuộc; nhiều cuộc gọi từ các số máy của Ng và của H2 liên lạc với nhau, phù hợp với vị trí cột sóng di chuyển của D, H2 và Ng.

Do đó, Nguyễn Thị Ng phải chịu trách nhiệm về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy là 2.842,42gam Methamphetamine và 332,18gam Heroine; Trịnh Trần D phải chịu trách nhiệm về hành vi Vận chuyển trái phép chất ma túy là 2.842,42gam Methamphetamine và 332,18gam Heroine.

Đối với Ngô Quốc H2 (người thuê D vận chuyển ma túy): Do Ngô Quốc H2 không có mặt tại địa phương, gia đình không biết H2 đang làm gì, ở đâu, Cơ quan điều tra chưa lấy được lời khai của H2. Ngoài lời khai của D, chưa có tài liệu nào khác chứng minh về hành vi của H2, nên ngày 24/9/2020, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách rút tài liệu liên quan đến Ngô Quốc H2 để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Cáo trạng số 372/CT-VKS-P1 ngày 05/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Thị Ng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố Trịnh Trần D về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 120/2021/HS-ST ngày 19/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ng phạm tội ”Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ng Tử hình; tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thị Ng để đảm bảo thi hành án; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị Ng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Trịnh Trần D; về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo, quyền làm đơn xin ân giảm án tử hình theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/4/2021, bị cáo Nguyễn Thị Ng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, sau đó thay đổi nội dung kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thị Ng giữ nguyên yêu cầu kháng cáo kêu oan.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Ng có quan điểm: Bị cáo Nguyễn Thị Ng luôn phủ nhận quy kết của bản án sơ thẩm, Cơ quan điều tra không thu giữ được của bị cáo Ng đối với vật chứng là ma túy và số thuê bao điện thoại 0787175239, người làm chứng Phạm Xuân Q khai nhận không biết gì về việc mua bán ma túy giữa các bị cáo Ng và D, không có lời khai của Ngô Quốc H2 về hành vi của bị cáo Ng; không giám định dấu vân tay tại các gói ma túy vì đây là chứng cứ vật chất của vụ án; không chứng minh được động cơ và mục đích của Ng; không chứng minh được nội dung các tin nhắn có việc giao dịch mua bán ma túy; không chứng minh được việc giữa Ng và D trao đổi cụ thể số lượng ma túy và số tiền; bỏ lọt các đối tượng liên quan hành vi phạm tội của D; Bản án chỉ dựa vào lời khai của bị cáo D để quy kết bị cáo Ng là chưa thuyết phục; chưa đủ cơ sở để quy kết bị cáo Ng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

Bị án Trịnh Trần D thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; khẳng định lời khai tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm đúng sự thật, đúng diễn biến vụ án, việc cung cấp lời khai là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: bị cáo Nguyễn Thị Ng bị xử phạt về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Ng tử hình là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm cũng như tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Ng không thừa nhận hành vi phạm tội, phủ nhận việc mua bán trái phép chất ma túy và khẳng định không nhận tiền từ Trịnh Trần D, không giao ba lô chứa ma túy cho D, mà D mượn ba lô này để đựng một bọc ban đầu khi đến D mang theo, Ng không gọi điện hoặc nhờ anh Phạm Xuân Q đi đón D, không sử dụng số điện thoại 0787175239, không quen biết ai là Ngô Quốc H2 và không mua bán ma tuý với H2 hoặc D. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của Trịnh Trần D tại phiên tòa phúc thẩm, cũng như lời khai của D tại cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm về quá trình thỏa thuận, di chuyển, giao tiếp và diễn biến sự việc trong quá trình phạm tội; căn cứ lời khai của anh Phạm Xuân Q về quá trình tiếp nhận yêu cầu của bị cáo Ng, về quá trình đón, tiếp xúc và đưa bị cáo D vào sáng ngày 31/7/2019 và sáng ngày 06/8/2019, về việc anh Q nhìn thấy bị cáo D cầm theo 01 túi nilon màu trắng khi anh Q đón D tại bến xe Điện Biên, nhìn thấy D mang theo ba lô màu đỏ đen khi D rời khỏi nhà Ng; căn cứ kết quả xác minh đối với bản kê chi tiết cuộc gọi đến, gọi đi giữa các số thuê bao điện thoại di động do các bị cáo Trịnh Trần D, Nguyễn Thị Ng, người làm chứng Phạm Xuân Q và đối tượng Ngô Quốc H2 đã sử dụng từ ngày 22/7/2019 đến ngày 06/8/2019. Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Ng cho rằng không biết D lấy ma túy từ đâu, số ma túy mà Công an thu giữ không phải lấy từ nhà Ng, trên đường từ Điện Biên về Hà Nội có thể D lấy số ma túy này, nên Ng không thể biết được, việc bản án sơ thẩm kết án Ng là không đúng. Xét thấy, lời khai nhận của Trịnh Trần D tại phiên tòa sơ, phúc thẩm phù hợp với lời khai của D tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản sự việc và các báo cáo bắt giữ, phù hợp các vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án; lời khai của D phù hợp kết quả xác minh về thông tin liên lạc, giữa các thuê bao 0386133210 do D sử dụng, với thuê bao 0787175239 do bị cáo Ng sử dụng, tại các thời điểm hơn 05 giờ sáng ngày 31/07/2019 và ngày 06/8/2019. Lời khai của người làm chứng Phạm Xuân Q phù hợp lời khai của Trịnh Trần D, phù hợp nội dung nhận dạng của anh Q đối với D, phù hợp chiếc ba lô màu đỏ đen do D mang từ nhà bị cáo Ng đi ra; lời khai của anh Q cũng phù hợp với các dữ liệu xác minh về thông tin liên lạc, giữa thuê bao số 0766 054419 do anh Q sử dụng với số thuê bao 0386133210 do D sử dụng, số thuê bao 0377966250 do Ng sử dụng, tại các thời điểm hơn 05 giờ sáng ngày 31/7/2019 và ngày 06/8/2019; lời khai của D và của anh Q cũng phù hợp các thông tin xác minh về các cuộc gọi đi, gọi đến giữa các số thuê bao do Trịnh Trần D, Nguyễn Thị Ng và đối tượng Ngô Quốc H2 đã sử dụng trong quá trình thỏa thuận, di chuyển, mua bán và vận chuyển trái phép chất ma túy nêu trên. Mặc dù bị cáo Nguyễn Thị Ng không thừa nhận hành vi phạm tội và kết quả điều tra không thu giữ được thuê bao điện thoại 0787175239. Với căn cứ các căn cứ nêu trên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với nhận xét và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm như sau: Đối tượng Ngô Quốc H2 đã giao cho Trịnh Trần D 685.000.000 đồng, yêu cầu D mang tiền giao cho Nguyễn Thị Ng và mang ma túy về cho H2; khoảng hơn 06 giờ sáng ngày 06/8/2019, tại nhà Nguyễn Thị Ng đội 4, xã Noong L, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Trịnh Trần D đã bàn giao cho Nguyễn Thị Ng 685.000.000 đồng theo yêu cầu của H2; sau khi nhận tiền, Nguyễn Thị Ng đã giao lại cho Trịnh Trần D 01 ba lô màu đỏ đen, bên trong chứa chất ma túy là 2.842,42 gam Methamphetamine và 332,18 gam Heroine; D đã tiếp nhận và vận chuyển số ma túy nêu trên về Hà Nội cho đối tượng Ngô Quốc H2 thì bị kiểm tra, phát hiện và thu giữ vật chứng vào khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày 06/8/2019 tại khu vực ngã ba đường gom Đại lộ Thăng Long - Lê Trọng Tấn thuộc địa bàn xã An Khánh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Hành vi nêu trên của Nguyễn Thị Ng đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, vi phạm tình tiết định khung “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị Ng theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

[3]. Đối với hành vi của Trịnh Trần D là người được đối tượng Ngô Quốc H2 đã giao cho Trịnh Trần D 685.000.000 đồng, yêu cầu D mang tiền giao cho Nguyễn Thị Ng và mang ma túy về cho H2, hành vi của D có dấu hiệu đồng phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nH2 cấp sơ thẩm xử phạt tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” (bao gồm 2.842,42 gam Methamphetamine và 332,18 gam Heroine), theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự; xử phạt tù Chung thân là chưa thỏa đáng, vì số lượng ma túy lớn, nhân thân xấu, tái phạm tội cùng loại. Do D không có kháng cáo, không bị kháng nghị bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời kiến nghị Cơ quan điều tra - Công an thành phố Hà Nội tiếp tục xác minh, điều tra, làm rõ và xử lý đối với Ngô Quốc H2 để xử lý theo quy định của pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Ng là đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho đời sống xã hội; Heroine và Methamphetamine là các chất ma túy độc hại, tàn phá và hủy hoại sức khỏe con người, nguyên nhân chính phát sinh ra các loại tội phạm khác trong đời sống; bị cáo nhận thức đầy đủ về tác hại của ma túy và tệ nạn về ma túy, nhưng vẫn cố ý mua bán trái phép chất ma túy với số lượng lớn nhằm thu lợi bất chính, tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo Ng không thừa nhận hành vi phạm tội, thể hiện thái độ bất chấp pháp luật, không ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, mặc dù bị cáo Ng không bị áp dụng tình tiết tăng nặng, nhưng với số lượng ma túy mua bán rất lớn, cấp phúc thẩm đồng tình cần thiết phải có hình phạt nghiêm minh đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung, góp phần đấu tranh phòng, chống tệ nạn và các tội phạm về ma túy trong đời sống xã hội. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm xem xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, bố chồng của bị cáo (ông Nguyễn Đình Gia) được thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, đã áp dụng tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất, hành vi, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, áp dụng hình phạt cao nhất là loại trừ bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, xử phạt bị cáo với mức hình phạt Tử hình là phù hợp.

[5]. Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Ng: Với khối lượng ma túy mà bị cáo Ng mua bán bao gồm 2.842,42 gam Methamphetamine và 332,18 gam Heroine. Hành vi của Nguyễn Thị Ng đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, vi phạm tình tiết định khung quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự như nhận định trên. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Ng không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới, mức hình phạt cấp sơ thẩm xử phạt là thỏa đáng nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, kháng cáo kêu oan của bị cáo Ng là không có cơ sở, không được chấp nhận.

[6]. Đối với quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Ng: Xét thấy, có đủ căn cứ kết tội bị cáo Nguyễn Thị Ng như nhận định trên, vì vậy, Luật sư đề nghị nghị hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ, lập luận và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.

[8]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[9]. Về án phí: Bi cao kháng cáo không được chấp nhận, phải chịu an phi hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Ng.

2. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 120/2021/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ng phạm tội ”Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ng Tử hình.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị Ng.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Ng phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong hạn 07 (Bảy) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Thị Ng có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 140/2022/HSPT

Số hiệu:140/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về