Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 135/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 135/2023/HS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 96/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 140/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2023;

- Các bị cáo:

1. Lý Trường G (tên gọi khác: Đ), sinh năm 1976 tại Đ; Căn cước công dân số: 075076000379; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: số A.314, Chung cư H, Tổ dân phố F, phường P, quận T, Thành phố H; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Trần T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc B; có vợ tên Nguyễn Thanh T1 và có 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Không;

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 64/HSST ngày 29-3-1995, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố H xử phạt 04 tháng tù giam về tội “Cướp giựt tài sản của công dân”, theo khoản 1 Điều 154 của Bộ luật Hình sự năm 1985; được trả tự do ngày 01-4-1995; đã đóng án phí ngày 11-8-1995.

- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 890/HSPT ngày 01/7/1996 (giải quyết kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 536/HSST ngày 17/4/1996 của Tòa án nhân dân Thành phố H), bị Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố H xử phạt 03 năm tù giam về tội “Cướp tài sản của công dân”, theo khoản 2 Điều 151 của Bộ luật Hình sự năm 1985; và 01 năm tù giam về tội “Gây rối trật tự công cộng”, theo khoản 2 Điều 198 của Bộ luật Hình sự năm 1985; tổng hợp hình phạt là 04 năm tù; chấp hành xong án phạt tù ngày 19/9/1998; đã đóng án phí ngày 30/10/1996.

- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 3761/HSPT ngày 23-3-2001 (giải quyết kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 2427/HSST ngày 15-9- 2000 của Tòa án nhân dân Thành phố H), bị Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố H xử phạt 07 năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999; chấp hành xong án phạt tù ngày 23/10/2006.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 81/2009/HSST ngày 17/3/2009, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố H xử phạt 13 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm h, p khoản 2, 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999; phạt bổ sung 10.000.000 đồng; chấp hành xong án phạt tù ngày 28/9/2018; đóng án phí ngày 21/8/2009 và nộp phạt xong 10.000.000 đồng ngày 02/3/2012.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 05/2020/HSST ngày 16/01/2020, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh B xử phạt 01 năm tù giam về tội “Đưa hối lộ”, theo khoản 1 Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015; chấp hành xong án phạt tù ngày 12/9/2020; đóng án phí ngày 19/3/2020.

Bị cáo đầu thú, bị bắt, chuyển tạm giam từ ngày 28-7-2022 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

2. Đỗ Hoàng P (tên gọi khác: B1), sinh năm 1989 tại Thành phố H; Căn cước công dân số: 079089003066; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Số C, đường N, Phường D, Quận C, Thành phố H; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Công L và bà Nguyễn Thị Minh C; có vợ tên Huỳnh Nguyễn Kim H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Tại Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn số: 36/QĐ-UBND ngày 24/12/2014, bị Ủy ban nhân dân Phường D, Quận C, Thành phố H áp dụng biện pháp xử lý hành chính thời hạn 03 tháng (24-12-2014 đến 24-3-2015), về hành vi nghiện ma túy; bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp, chuyển tạm giam từ ngày 28-7-2022 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

3. Phan Văn V, sinh năm 1968 tại Bình Dương; Căn cước công dân số: 07406800xxxx; nơi đăng ký thường trú: Tổ A, ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đ; nơi cư trú: Xã N, huyện N, Thành phố H; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn B2 (đã chết) và bà Mai Thị Q; có vợ tên Nguyễn Thị Lệ M và có 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2016/HSST ngày 30/3/2016, bị Tòa án nhân dân Quận 2 (nay là thành phố T), Thành phố H xử phạt 07 năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, điểm p khoản 2, 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, phạt bổ sung 5.000.000 đồng; chấp hành xong án phạt tù ngày 24/01/2021; đã đóng án phí cùng tiền nộp phạt xong ngày 28/11/2016;

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 52/2006/HSST ngày 11/8/2006, bị Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố L), tỉnh Đ xử phạt 02 năm tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999, buộc bồi thường dân sự 8.225.000 đồng; chấp hành xong án phạt tù ngày 10/9/2007.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2012/HSST ngày 18/01/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đ xử phạt 08 tháng tù giam về tội “Chống người thi hành công vụ”, theo khoản 1 Điều 257 của Bộ luật Hình sự năm 1999; chấp hành xong án phạt tù ngày 06/5/2012 và đã đóng án phí ngày 10/8/2012.

Bị cáo bị bắt quả tang, chuyển tạm giam từ ngày 26-7-2022 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa:

1. Người bào chữa cho bị cáo Lý Trường G: Ông Ngô Đức T2, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; nơi làm việc: Văn phòng L1; địa chỉ: số B, phố H, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

2. Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Hoàng P: Ông Nguyễn Trí T3, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; nơi làm việc: Công ty L2; địa chỉ: Số I, xa lộ H, Khu phố E, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

3. Người bào cha cho bị cáo Phan Văn V: Ông Nguyễn P1, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; nơi làm việc: Văn phòng L3; địa chỉ: số D, Khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Lý Trường G, Đỗ Hoàng P và Phan Văn V là bạn bè, quen biết ngoài xã hội và đều nghiện ma túy. Trong thời gian từ tháng 06/2022 đến ngày 23/7/2022, Lý Trường G nhiều lần mua ma túy của người tên S (không rõ lai lịch) tại khu vực thuộc Quận H, Thành phố H; sau đó, giao lại cho Đỗ Hoàng P mang về nhà tại số C, đường N, Phường D, Quận C, Thành phố H cất giấu, để bán cho nhiều người khác. Ngày 15/7/2022, G mua của S 01 gói ma túy loại Heroin giá 20.000.000 đồng. Đến ngày 23/7/2022, G tiếp tục thỏa thuận mua của S 50.000.000 đồng ma túy đá, khay và H1. Mua được ma túy của S, G đã bán cho Phan Văn V 02 lần 03 gói ma túy, giá 61.000.000 đồng:

Lần 1: Ngày 23/7/2022, tại nơi ở của Lý Trường G (Số: 49/56/97, đường T, phường P, quận T, Thành phố H), G bán cho Phan Văn V 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá, giá 7.000.000 đồng. V mang gói ma túy mua được của G về sử dụng hết.

Lần 2: Ngày 25/7/2022, Phan Văn V liên lạc với Đỗ Hoàng P và Lý Trường G, thỏa thuận mua 200 gam ma túy giá 54.000.000 đồng. Sáng ngày 26/7/2022, V trả trước cho G số tiền 27.000.000 đồng và điều khiển xe mô tô biển số 59C2-xxxxx, đi đến khu vực Đường số C, khu K, Quận G, Thành phố H nhận 02 gói ma túy, mang về tỉnh Đ, để tìm người bán lại kiếm lời.

2. Vật chứng, tài sản, đồ vật thu giữ:

Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 26/7/2022, khi Phan Văn V đi đến khu vực thuộc Tổ B, Khu phố I, phường A, thành phố B, tìm người để bán ma túy thì bị Công an thành phố B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ: 02 gói ni-lon chứa chất màu trắng; 01 xe mô tô hiệu Honda Winner màu xanh trắng biển số 52C2-xxxxx; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 52C2-xxxxx; 02 điện thoại di động hiệu Iphone; 1.000.000 đồng.

Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 27/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố B tiến hành khám xét khẩn cấp đối với Đỗ Hoàng P, thu giữ : 07 gói ni-lon chứa tinh thể màu trắng; 05 gói ni-lon chứa chất bột màu trắng; 04 gói ni-lon chứa chất bột màu vàng nâu; 05 gói ni-lon chứa chất bột dạng cục màu vàng nâu; 02 điện thoại di động hiệu Iphone; 02 Ipad; 01 cân tiểu ly điện tử; 01 bộ nỏ thủy tinh, để sử dụng ma túy; 12.000.000 đồng; 03 thẻ ATM tên Do Hoang P2; 01 hộp giấy hình chữ nhật kích thước 20x30 cm có ghi chữ “Hàng dễ vỡ”.

Ngày 28/7/2022, Lý Trường G đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố B đầu thú, khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy và tự nguyện giao nộp: 04 điện thoại di động hiệu Iphone; 01 xe mô tô biển số 72K1- xxxxx; 03 nhẫn kim loại màu vàng; 02 nhẫn kim loại màu bạch kim; 01 dây chuyền màu vàng có gắn mặt kim loại màu vàng và gắn 01 hình răng nanh ốp kim loại màu vàng; 01 dây chuyền kim loại màu vàng; 01 vòng đá màu đỏ có gắn hình con tỳ hươu màu vàng; 01 vòng đá màu đỏ gắn 02 mẩu kim loại màu vàng; 01 đồng hồ đeo tay màu vàng có mặt màu xanh trên mặt có chữ R; 119.200.000 đồng.

3. Giám định:

Kết luận giám định số: 1594/KL-KTHS ngày 31/7/2022 của Phòng K- Công an tỉnh Đ, kết luận về số ma túy thu giữ khi bắt quả tang Phan Văn V có khối lượng 199,903 gam loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số: 1610/KL-KTHS ngày 02/8/2022 của Phòng K- Công an tỉnh Đ, kết luận về số ma túy thu giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Hoàng P, có khối lượng 153,793 gam loại Methamphetamine; 340,8107 gam loại Heroin; 29,9328 gam loại Ketamine.

4. Nội dung khác có liên quan:

Đối với người tên S bán ma túy cho Lý Trường G; 01 xe mô tô hiệu Honda Winner màu xanh trắng biển số 52C2-xxxxx; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 52C2-xxxxx. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Đ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau.

5. Cáo trạng và trình bày của Kim sát viên tại phiên tòa:

Cáo trạng số: 97/CT-VKS-P1 ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đ, đã quyết định truy tố:

- Lý Trường G và Đỗ Hoàng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

- Phan Văn V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Tuyên bố các bị cáo phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

- Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 (áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với Lý Trường G); điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt:

+ Bị cáo Lý Trường G: Tù chung thân.

+ Bị cáo Đỗ Hoàng P: Tù chung thân.

- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo Phan Văn V: 20 năm tù.

- Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đề nghị giải quyết theo nội dung cáo trạng.

6. Trình bày của các bị cáo tại phiên tòa:

Các bị cáo vẫn giữ nguyên ý kiến và lời khai trong quá trình điều tra và truy tố; đồng thời, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã mô tả.

7. Người bào chữa cho các bị cáo trình bày tại phiên tòa:

7.1. Người bào chữa cho bị cáo Lý Trường G:

Về tội danh: Thống nhất như quan điểm truy tố.

Về hình phạt: Bị cáo Lý Trường G có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự, cụ thể:

- Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Gia đình bị cáo có nộp đơn, tự nguyện nộp tiền thu lợi bất chính 27.000.000 đồng nhưng chưa được Tòa án chấp nhận; quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Bị cáo tự nguyện ra đầu thú và gia đình có hoàn cảnh khó khăn (có xác nhận của địa phương); quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Từ những nội dung trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự, để quyết định cho bị cáo Lý Trường G dưới khung hình phạt.

7.2. Người bào chữa cho bị cáo Đ Hoàng P:

Về tội danh: Thống nhất như quan điểm truy tố.

Về hình phạt: Bị cáo Đỗ Hoàng P thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Qua diễn biến tại phiên tòa, thể hiện bị cáo không phạm tội 02 lần trở lên như cáo trạng đã quy kết. Khối lượng ma túy bị cáo bán ra thực tế chưa nhiều thì bị bắt. Hoàn cảnh của bị cáo rất khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

7.3. Người bào chữa cho bị cáo Phan Văn V:

Về tội danh: Thống nhất như quan điểm truy tố.

Về hình phạt: Bị cáo Phan Văn V thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có cha tham gia cách mạng; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm” chứ không phải “tái phạm nguy hiểm” như cáo trạng đã quy kết. Từ những nội dung trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự, để quyết định cho bị cáo Phan Văn V dưới khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ.

[2] Về tội danh bị truy tố:

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã mô tả. Trình bày của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Trong khoảng thời gian từ đầu tháng 6/2022 đến ngày 26/7/2022, tại Thành phố H, Lý Trường G có hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy với nhiều người khác; trong đó, bán cho Phan Văn V 02 lần 03 gói ma túy giá 61.000.000 đồng (Đỗ Hoàng P giúp sức 01 lần). Khi V mang số ma túy mua của G về đến tỉnh Đ để bán lại cho người khác thì bị phát hiện bắt quả tang.

Lý Trường G có hành vi mua bán trái phép 353,696 gam ma túy loại Methamphetamine; 340,8107 gam ma túy loại Heroin; 29,9328 gam ma túy loại Ketamine. Đỗ Hoàng P có hành vi giúp sức cho bị cáo Lý Trường G bán trái phép chất ma túy, chịu trách nhiệm cùng với khối lượng ma túy với bị cáo Lý Trường G nhưng với vai trò thấp hơn.

Phan Văn V có hành vi mua bán trái phép 199,903 gam ma túy, loại Methamphetamine.

Đủ cơ sở kết luận:

- Các bị cáo Lý Trường G và Đỗ Hoàng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Bị cáo Phan Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về trách nhiệm hình sự:

3.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Lý Trường G phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo Phan Văn V phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Qua diễn biến tại phiên tòa cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, chỉ có cơ sở xác định Đỗ Hoàng P giúp sức cho Lý Trường G 01 lần; cáo trạng kết luận bị cáo Đỗ Hoàng P thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là không có cơ sở.

3.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Lý Trường G tự nguyện ra đầu thú và gia đình có hoàn cảnh khó khăn (có xác nhận của địa phương). Cha bị cáo Phan Văn V (ông Phan Văn B2) được tặng “Huy chương Kháng chiến Hạng Nhì”. Các tình tiết này được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

3.3. Về hình phạt và biện pháp ngăn chặn:

Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, cần xử phạt các bị cáo hình phạt tù, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với đặc điểm nhân thân và hành vi phạm tội của từng bị cáo, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm; đồng thời, tiếp tục tạm giam các bị cáo để bảo đảm cho việc thi hành án.

[4] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và các vật chứng liên quan.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội.

- Sung công quỹ Nhà nước số tiền do phạm tội mà có.

- Trả lại tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội.

[5] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa tại phiên tòa:

- Chấp nhận một phần quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

- Chấp nhận một phần quan điểm của người bào chữa.

- Đối với phần trình bày của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố và hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Lý Trường G và Đỗ Hoàng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Phan Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2. Hình phạt:

2.1. Bị cáo Lý Trường G:

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lý Trường G tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 28- 7-2022.

2.2. Bị cáo Đỗ Hoàng P:

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Đỗ Hoàng P 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28-7-2022.

2.3. Bị cáo Phan Văn V:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Phan Văn V 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26-7-2022.

3. Biện pháp ngăn chặn:

Căn cứ khoản 1 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Lý Trường G, Đỗ Hoàng P và Phan Văn V theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, để bảo đảm thi hành án.

4. Xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Áp dụng Điều 46 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 1594/KL-KTHS ngày 02/8/2022; 01 gói niêm phong số 1610/KL-KTHS ngày 02/8/2022; 01 bộ nỏ sử dụng ma túy; 01 hộp giấy hình chữ nhật kích thước 20x30 cm có ghi chữ “Hàng dễ vỡ”.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, kèm sim, số IMEI 354857090062402; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu vàng hồng, kèm sim, số IMEI 355335083113291; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 màu ghi, kèm sim, số IMEI 351016090640153.

- Buộc bị cáo Lý Trường G nộp lại 27.000.000 đồng (hai mươi bảy trệu đồng), sung vào công quỹ Nhà nước. Tiếp tục tạm giữ số tiền 119.200.000 đồng (một trăm mười chín triệu hai trăm nghìn đồng) thu giữ của Lý Trường G, để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Phan Văn V: 1.000.000 đồng (một triệu đồng); 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, kèm sim, số IMEI 353101100764314.

- Trả lại cho Đỗ Hoàng P: 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng); 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu tím, kèm sim, số IMEI 356557106319766; 01 Ipad Air 2 màu đen số Imel 356969067844494; 01 Ipad màu vàng đồng; 01 cân tiểu ly điện tử; 01 thẻ ATM V1 tên Do Hoang P số 970436860377998xxxx; 01 thẻ ATM V1 tên Do Hoang P số 412975068965xxxx; 01 thẻ ATM V1 tên Do H số D.

- Trả lại cho Lý Trường G: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu ghi, kèm sim, số IMEI 353912100633824; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu vàng, kèm sim, số IMEI 358786050478744; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng; 01 xe mô tô biển số 72K1-xxxxx, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, số khung RLHJF6307FZ013267, số máy JF63E-1013303.

Các vật chứng nêu trên, đang lưu giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đ, theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản và Biên bản về việc niêm phong tài sản, tang vật cùng ngày 16-5-2023, phiếu nhập: NK23/112.

Các số tiền nêu trên nằm trong tng số tiền 132.200.000 đồng (một trăm ba mươi hai triệu hai trăm nghìn đồng), đã được nộp vào tài khoản Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đ theo Giấy nộp tiền mặt số 20588622 ngày 12-5- 2023 của Ngân hàng Thương mại C phần Đ1 - Chi nhánh B3.

5. Án phí:

Buộc các bị cáo Lý Trường G, Đỗ Hoàng P và Phan Văn V, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo Lý Trường G, Đỗ Hoàng P và Phan Văn V, được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 135/2023/HS-ST

Số hiệu:135/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về