Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 23/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 259/2023/TLST- HS ngày 16 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 238/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đào Duy T, sinh ngày 04/4/1988 tại tỉnh Đồng Nai.

CCCD số: 07508802xxxx cấp ngày 01/11/2022. Nơi cấp: Cục Quản lý hành chính về trật tự xã hội.

Nơi cư trú: Ấp 4, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đào Tiến V, sinh năm 1963 và bà Trần Thị Kim U, sinh năm 1965; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ hai và chưa có vợ con.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 20/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, chấp hành xong án phạt tù ngày 19/10/2022 và đã nộp án phí.

Bị cáo bị bắt ngày 06/6/2023, chuyển tạm giam ngày 15/6/2023 và hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

Người bào chữa cho bị cáo theo quy định: Luật sư Vũ Văn T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.

2. Họ và tên: Lục Long Th, sinh ngày 17/12/1991 tại tỉnh Đồng Nai.

Định danh cá nhân số: 07509101xxxx.

Nơi cư trú: Ấp 1, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lục Long C, sinh năm 1969 và bà Ngô Thị Tr, sinh năm 1973; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ nhất; Có vợ là Trương Thị Kim S, sinh năm 1994 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2013.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 06/6/2023, chuyển tạm giam ngày 15/6/2023 và hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

(Các bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo  T có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Đào Duy T, Lục Long Th là người nghiện ma túy và không có việc làm ổn định, để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, từ tháng 05/2023 đến ngày 06/6/2023, Đào Duy T sử dụng điện thoại di động vào trang mạng xã hội Facebook liên lạc mua 02 gói ma túy đá giá 10.000.000 đồng của người tên B có tài khoản tên “Maihung Mai” (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực Ngã tư Hàng Xanh thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh mang về huyện T, tỉnh Đồng Nai để sử dụng và bán lại kiếm lời, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào đầu tháng 05/2023, Đào Duy T liên lạc với B qua tài khoản Facebook trên thỏa thuận mua 01 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 1.000.000 đồng. Sau đó, T đi đến khu vực Ngã tư Hàng Xanh thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) nhận gói ma túy và trả 1.000.000 đồng. T mang gói ma túy về nơi ở sử dụng một ít, số ma túy còn lại bán cho Lục Long Th giá 1.000.000 đồng tại quán cà phê gần khu vực chợ cũ Phước Thái thuộc xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Th mang số ma túy trên về nhà tại Ấp 1, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai cất giấu và đã sử dụng hết.

Lần thứ hai: Vào ngày 05/6/2023, Đào Duy T tiếp tục liên lạc với B mua 50gam ma túy đá giá 9.000.000 đồng tại khu vực Ngã tư Hàng Xanh thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. T mang gói ma túy trên về nhà tại Ấp 4, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai phân chia thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán cho người khác. Khoảng 12 giờ 00 ngày 06/6/2023, Lục Long Th sử dụng ứng dụng Zalo tài khoản tên “Kiều Trâu” liên lạc với T qua tài khoản Zalo tên “Ảo mộng” thỏa thuận mua 10gam ma túy đá giá 3.000.000 đồng và hẹn đến nhà T để mua bán ma túy. Th sử dụng xe mô tô biển số 72K1-X.51 đi đến nhà T mua 10 gói ma túy đá khối lượng: 10,4248 gam và trả cho  T 1.100.000 đồng, còn nợ lại 1.900.000 đồng.

Vào lúc 14 giờ 40 phút ngày 06/6/2023, tại đoạn đường thuộc Tổ 6, Ấp 1B, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Công an xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai kiểm tra phát hiện bắt quả tang Lục Long Th và thu giữ: 10 gói nilon chứa tinh thể màu trắng là ma túy (loại ma túy đá) Th mua của Đào Duy T cùng 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu vàng nhạt; 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu màu đen có chữ G sau lưng; 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh đen;

01 xe mô tô hiệu Honda loại Sonic màu trắng - hồng- đen, biển số 72K1 – X.51. Vào lúc 17 giờ 00 phút ngày 06/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành Khám xét khẩn cấp tại nhà của Đào Duy T thu giữ: 06 gói nilon chứa tinh thể màu trắng là ma túy (loại ma túy đá); 01 cân điện tử màu đen không nhãn hiệu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 bình thủy tinh cao 8cm gắn 01 ống hút nhựa, 01 ống thủy tinh đầu hình cầu); 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số seri: C39QGQU1GRWQ, sim số 0925777Z.

- Kết luận giám định số 1183/KL-KTHS ngày 12/6/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai về số ma túy thu giữ của Lục Long Th và Đào Duy T, kết luận:

“Mẫu tinh thể rắn màu trắng (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 10,4248 gam (Mười phẩy bốn hai bốn tám gam), loại: Methamphetamine”.

“Mẫu tinh thể rắn màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 37,8977 gam (Ba mươi bảy phẩy tám chín bảy bảy gam), loại: Methamphetamine”.

- Về biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 1183/KL-KTHS ngày 12/6/2023 là số ma túy còn lại đã được niêm phong sau giám định và 01 cân điện tử màu đen không nhãn hiệu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 bình thủy tinh cao 8cm gắn 01 ống hút nhựa, 01 ống thủy tinh đầu hình cầu) không còn giá trị sử dụng.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu vàng nhạt; 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu màu đen có chữ G sau lưng;

01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh đen; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số seri: C39QGQU1GRWQ, sim số 0925777Z là công cụ, phương tiện sử dụng vào mục đích phạm tội.

+ Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại 01 xe mô tô hiệu Honda loại Sonic màu trắng - hồng- đen, biển số 72K1 – X.51 cho chủ sở hữu.

2. Truy tố: Cáo trạng số 242/CT-VKS-P1 ngày 06/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Đào Duy T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự và bị cáo Lục Long Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

3. Ý kiến của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo xác định tất cả lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc hay bức cung. Kết luận điều tra cũng như bản cáo trạng truy tố các bị cáo ra trước tòa hoàn toàn phù hợp với hành vi của các bị cáo đã thực hiện. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

4. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa

4.1. Về tội danh, trách nhiệm hình sự, quan điểm truy tố và điều luật áp dụng: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đào Duy T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị cáo Lục Long Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

4.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Các bị cáo Đào Duy T, Lục Long Th có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đào Duy T có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

4.3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

4.4. Điều luật áp dụng và mức án đề nghị:

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đề nghị xử phạt bị cáo Đào Duy T mức án từ 16 đến 18 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đề nghị xử phạt bị cáo Lục Long Th mức án từ 06 đến 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

4.5. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử lý theo quy định.

4.6. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

5. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Đào Duy T theo quy định của pháp luật trình bày tại bài bào chữa:

Hành vi của bị cáo Đào Duy T theo tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố, bị cáo cũng thừa nhận hành vi phạm tội, nên không có ý kiến tranh luận về tội danh.

Đề nghị Hội đồng xem xét, trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay thì bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Từ trình bày trên đề nghị Hội đồng xét xử công tâm xem xét cho các bị cáo mức hình phạt phù hợp với hành vi sai phạm của các bị cáo, để các bị cáo còn có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như tại phiên tòa, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ, quyền được bào chữa và tự bào chữa của các bị cáo được bảo đảm. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phù hợp.

[2] Về nội dung:

2.1. Về hành vi của các bị cáo bị truy tố:

Tại phiên tòa các bị cáo Đào Duy T, Lục Long Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ, biên bản khám xét, Kết luận giám định, cùng các chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ trong vụ án, hành vi của các bị cáo trong vụ án này được xem xét đánh giá toàn diện trong mối quan hệ với chứng cứ khác để xác định đúng bản chất của vụ án, phù hợp với hành vi của các bị cáo thực hiện mà Kết luận điều tra cũng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã mô tả.

2.2. Về tội danh và Điều luật áp dụng:

Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2023 đến ngày 06/6/2023, tại khu vực Ngã tư Hàng Xanh thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, Đào Duy T đã 02 lần mua 02 gói ma túy (loại ma túy đá) giá 10.000.000 đồng của người tên Bình (không rõ nhân thân lai lịch) mang về nhà tại Ấp 4, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai để sử dụng và bán trái phép cho Lục Long Th 02 lần để sử dụng, cụ thể: Vào khoảng tháng 05/2023, T bán cho Th 01 gói ma túy (không rõ khối lượng) giá 1.000.000 đồng và vào ngày 06/6/2023, T bán cho Th 10 gói ma túy khối lượng 10,4248 gam loại Methamphetamine với giá 3.000.000 đồng. Khi Th mang số ma túy mua được của T về đến đường thuộc tổ 6, ấp 1B, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì bị phát hiện bắt quả tang. Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Duy T thu giữ 06 gói ma túy khối lượng: 37,8977 gam loại Methamphetamine.

Đào Duy T có hành vi mua bán trái phép 48,3225 gam ma túy loại Methamphetamine.

Lục Long Th có hành vi tàng trữ trái phép 10,4248 gam ma túy loại Methamphetamine.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đào Duy T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Lục Long Th đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

2.3. Đánh giá về tính chất, mức độ, hành vi của các bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo T là đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo Th là rất nghiêm trọng. Các bị cáo mua bán, tàng trữ lượng ma túy lớn. Hành vi của các bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, là mầm móng cho việc phát sinh các tệ nạn xã hội. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm mới đủ tác dụng răn đe giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Trong vụ án này, mỗi bị cáo phải chịu trách nhiệm về số lượng ma túy mà các bị cáo bị xét xử theo tội danh.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng cho các bị cáo:

3.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Đào Duy T, Lục Long Th có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đào Duy T có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

3.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 1183/KL-KTHS ngày 12/6/2023 là số ma túy còn lại đã được niêm phong sau giám định và 01 cân điện tử màu đen không nhãn hiệu không còn giá trị sử dụng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 bình thủy tinh cao 8cm gắn 01 ống hút nhựa, 01 ống thủy tinh đầu hình cầu).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu vàng nhạt; 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu màu đen có chữ G sau lưng;

01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh đen; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số seri: C39QGQU1GRWQ, sim số 0925777Z là công cụ, phương tiện sử dụng vào mục đích phạm tội.

[5] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Đào Duy T tại bài bào chữa về hành vi phạm tội, tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 47, Điều 48, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo Đào Duy T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Đào Duy T 17 (Mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 6 năm 2023.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; căn cứ điểm điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 47, Điều 48, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo Lục Long Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lục Long Th 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 6 năm 2023.

2. Về biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 1183/KL-KTHS ngày 12/6/2023 là số ma túy còn lại đã được niêm phong sau giám định và 01 cân điện tử màu đen không nhãn hiệu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 bình thủy tinh cao 8cm gắn 01 ống hút nhựa, 01 ống thủy tinh đầu hình cầu).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu vàng nhạt; 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu màu đen có chữ G sau lưng; 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh đen; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số seri: C39QGQU1GRWQ, sim số 0925777Z.

(Các vật chứng xử lý trên theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/11/2023 giữa Cơ quan điều tra PC 04 – Công an tỉnh Đồng Nai và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai)

3. Về án phí:

Bị cáo Đào Duy T, Lục Long Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về