Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 131/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 131/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26-9-2023, tại trụ sở TAND huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 123/2023/TLST-HS ngày 08-9-2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2023/QĐXXST-HS ngày 14-9-2023 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN NGỌC A, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Số 2, ngõ 77, phố 8/3, phường Minh Khai, quận H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dA tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc B và con bà Nguyễn Thị H T; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 11-01-2023, tạm giam từ ngày 17-01-2023 tại Trại tạm giam số 01 – Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

2. NGUYỄN VĂN D, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Thôn Bàn Giữa, xã Hữu Bằng, huyện T, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dA tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn D và con bà Nguyễn Thị B; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 06-01-2023, tạm giam từ ngày 15-01-2023 tại Trại tạm giam số 01 – Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn Bàn G, xã Hữu B, huyện T, thành phố Hà Nội, mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Phan Văn C, sinh năm 1967; Địa chỉ: Thôn Ba M, xã Hữu B, huyện T, thành phố Hà Nội, vắng mặt.

2. Anh Tạ Đình S, sinh năm 1997; Địa chỉ: Thôn S, xã Hữu B, huyện T, thành phố Hà Nội, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng tháng 09 năm 2022, Nguyễn Ngọc A nhắn tin với một người sử dụng tài khoản Zalo “N” đặt mua 100 POD thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy nhãn hiệu “Homies Hight” với giá 170.000 đồng/POD. Khi nhận hàng, A được người này cho thêm 02 POD thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy nhãn hiệu “ITATPOD”. Sau đó, A đăng lên mạng xã hội giao bán.

Ngày 02-01-2023, Nguyễn Văn D sử dụng tài khoản Facebook “D D” và tài khoản Zalo “D D” mua của A 100 cây thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy loại “Homies Hight” với giá 180.000 đồng/POD. D chuyển trước 5.000.000 đồng vào số tài khoản 19034310700013 của A mở tại NgA hàng Techcombank. A chuyển 100 POD thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy nhãn hiệu “Homies Hight” cho D bằng hình thức chuyển phát nhanh và tặng thêm cho D 02 POD thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy nhãn hiệu “ITATPOD”, D đã chuyển khoản trả A số tiền 13.000.000 đồng còn lại.

D đăng lên mạng xã hội ZaLo và Facebook giao bán thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 04-01-2023, Tạ S sử dụng tên Facebook “S” nhắn tin cho D hỏi mua 04 POD thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy. D đồng ý bán với giá 2.400.000 đồng (800.000 đồng/01 POD) và tặng thêm 01 POD cùng loại cho Sơn, hẹn gặp tại khu vực trạm điện 4 thuộc thôn Ba Mát, xã Hữu Bằng, huyện T để mua bán. Sau đó, D điều khiển xe mô tô BKS 29V5-xxxxx đi đến điểm hẹn, Sơn đưa cho D số tiền 2.500.000 đồng, D trả lại Sơn 100.000 đồng, chưa kịp giao thuốc lá điện tử thì bị lực lượng Công an xã phát hiện, bắt giữ quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 05 túi ni lông màu trắng, trong mỗi túi ni lông đựng một thuốc lá điện tử có đặc điểm màu vàng cam, đen, hình trụ tròn, trên có ghi chữ “HOMIESHIGH” (niêm phong ký hiệu mẫu A1); Số tiền 2.400.000 đồng thu giữ tại túi áo khoác bên phải D đang mặc; Số tiền 100.000 đồng thu giữ của Tạ S; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max 64GB màu xanh đen, có sim thuê bao số 0986.408.xxx thu giữ của D; 01 xe mô tô BKS: 29V5-xxxxx nhãn hiệu HonDa màu xanh đen thu giữ của D, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Văn Dũng.

Ngày 04-01-2023, Công an tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của D tại thôn Bàn Giữa, xã Hữu Bằng, huyện T đã thu giữ: 02 hộp giấy màu đen bên ngoài vỏ hộp có ghi chữ “ITATPOD” bên trong là 01 túi ni lông màu trắng chứa 01 thuốc lá điện tử (POD) có đặc điểm màu đen, hình trụ tròn, trên thA ghi dòng chữ “ITAPOD” (niêm phong ký hiệu mẫu A2); 47 túi ni lông màu trắng, trong mỗi túi đựng 01 thuốc lá điện tử (POD) có đặc điểm màu vàng cam, đen, dáng hình trụ tròn, trên thA ghi dòng chữ “HOMIESHIGH”; 48 hộp giấy màu cam, bên trong mỗi hộp là túi ni lông màu trắng đựng 01 thuốc lá điện tử (POD) có đặc điểm màu vàng cam, đen, hình trụ tròn, trên thA ghi dòng chữ “HOMIESHIGH” (niêm phong ký hiệu mẫu A3);

Ngày 11-01-2023, Nguyễn Ngọc A đến Công an huyện T đầu thú và giao nộp vật chứng gồm: 01 thẻ NgA hàng TechcomBank số 422150866026xxx mang tên Nguyễn Ngọc A; 01 điện thoại OPPO đã qua sử dụng có sim số 0868.893.xxx và 01 điện thoại Iphone có sim số 0859.526.xxx Bản kết luận giám định số 362/KL-KTHS ngày 13-01-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hà Nội, kết luận: Mẫu A1, A2, A3 đều chứa ma túy loại ADB – Butinaca, không thể xác định được thể tích và hàm lượng chất ma túy có trong dung dịch được tẩm ướp vào bông, đầu lọc của mẫu giám định.

Đối với Tạ S có hành vi mua 5 thuốc lá điện tử với số tiền 2.400.000 đồng mục đích để sử dụng nhưng chưa nhận ma túy thì bị bắt giữ; kết quả điều tra không đủ căn cứ xử lý Sơn về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (do không xác định được hàm lượng chất ma túy có trong thuốc lá điện tử). Về đối tượng đã bán POD thuốc lá điện tử cho A qua tài khoản Zalo “N” và tài khoản 10787139xxx tại NgA hàng TMCP Công Thương Việt Nam. Kết quả điều tra đã xác minh nhưng chưa có kết quả nên đã tách rút tài liệu để làm rõ và xử lý sau.

Cáo trạng số 117/CT-VKS ngày 07-9-2023 của Viện kiểm sát nhA dA huyện T truy tố các bị cáo Nguyễn Ngọc A, Nguyễn Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo A khai nhận đã thực hiện hành vi bán 100 POD thuốc lá điện tử “Homies Hight” có chứa chất ma túy ADB-Butinaca với số tiền 18.000.000 đồng và tặng thêm cho D 02 POD thuốc lá điện tử “ITATPOD” có chứa chất ma túy ADB-Butinaca. Bị cáo D khai nhận trong ngày 04-01-2023 đã bán cho Sơn 04 POD thuốc lá điện tử “Homies High” có chứa chất ma túy ADB-Butinaca với giá 2.400.000 đồng và tặng thêm cho Sơn 01 POD thuốc lá điện tử “Homies High” thì bị Công an bắt quả tang; số thuốc lá điện tử còn lại trong nhà D gồm 95 POD thuốc lá điện tử “Homies Hight” và 02 POD thuốc lá điện tử “ITATPOD” đều chứa chất ma túy ADB-Butinaca được D cất giữ để bán lại cho người khác. Việc liên hệ mua bán thuốc lá điện tử “ITATPOD” có chứa chất ma túy ADB-Butinaca của các bị cáo đều thực hiện trên mạng xã hội ZaLo và Facebook. Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi và tội danh bị truy tố theo cáo trạng, bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, xin được khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện VKSND huyện T tham gia phiên tòa khẳng định có đầy đủ căn cứ truy tố Nguyễn Ngọc A và Nguyễn Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” sau khi phA tích tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 (A được áp dụng thêm khoản 2) Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Ngọc A và Nguyễn Văn D mỗi bị cáo từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng theo quy định và không đề nghị áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án: Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và người tiến hành tố tụng khác trong vụ án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa không có khiếu nại, tố cáo về các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định: Ngày 02-01-2023, Nguyễn Ngọc A đã thực hiện hành vi bán cho Nguyễn Văn D 100 POD thuốc lá điện tử “Homies Hight” với giá 18.000.000 đồng và tặng thêm 02 POD thuốc lá điện tử “ITATPOD” có chứa chất ma túy ADB-Butinaca cho D. Ngày 04-01-2023, D bán cho Sơn 04 POD thuốc lá điện tử “Homies High” có chứa chất ma túy ADB-Butinaca với giá 2.400.000 đồng và tặng 01 POD thuốc lá điện tử “Homies High” có chứa chất ma túy ADB- Butinaca cho Sơn, còn lại 97 thuốc lá điện tử có chứa chất ma túy ADB-Butinaca mà D mua của A đang cất giữ tại chỗ ở nhằm mục đích bán kiếm lời. Cáo trạng của VKSND huyện T truy tố Nguyễn Ngọc A, Nguyễn Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ tội phạm và năng lực chịu trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến những quy định của pháp luật về quản lý các chất ma túy nói chung và loại ma túy ADB-Butinaca nói riêng mới được bổ sung vào danh mục chất ma túy (nhóm 2) ở Việt Nam từ ngày 25-8-2022 theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP của Chính phủ. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý phạm tội gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Trong vụ án này, cơ quan giám định không xác định được thể tích và hàm lượng chất ma túy ADB-Butinaca nên Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội để áp dụng mức phạt tù phù hợp, góp phần giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm.

[4] Về nhA thA và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: NhA thA của các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; các bị cáo không phạm vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo A đã tự giác đến cơ quan Công an đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng là 102 chiếc thuốc lá điện tử có chứa ma túy là chất cấm không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, 02 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone sử dụng vào việc mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với số tiền 2.400.000 đồng liên quan đến việc mua bán ma túy (giữa D và Sơn) cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Số tiền 100.000 đồng thu giữ của Tạ S (D trả lại cho Sơn khi mua ma túy) không liên quan đến việc mua bán ma túy nên trả lại cho Sơn. Đối với xe mô tô BKS: 29V5-xxxxx của ông Nguyễn Văn Dũng (bố của D) là chủ sử dụng nhưng không biết D sử dụng xe vào mục đích mua bán ma túy nên trả lại cho ông Dũng. Đối với 01 thẻ NgA hàng Techcombank được sử dụng làm phương tiện để giao dịch trên tài khoản cá nhA nên trả lại cho Nguyễn Ngọc A. Đối với 18.000.000 đồng là tiền D trả tiền cho A để mua thuốc lá điện tử chứa chất ma túy cần truy thu buộc A nộp sung quỹ nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Ngọc A 26 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11-01- 2023 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn D 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06-01-2023 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý vật chứng như sau:

+ Tịch thu tiêu hủy 102 chiếc thuốc lá điện tử có chứa ma túy loại ADB- Butinaca.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 2.400.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng, 02 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng.

+ Truy thu, buộc Nguyễn Ngọc A phải nộp 18.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

+ Trả lại cho Tạ S số tiền 100.000 đồng; trả lại Nguyễn Ngọc A 01 thẻ NgA hàng Techcombank; trả lại 01 xe mô tô BKS: 29V5-xxxxx cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn Dũng (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận tài sản, tang vật số 116 /THA ngày 25-9-2023 và ủy nhiệm chi chuyển tiền cho Chi cục thi hành án dA sự).

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Nguyễn Ngọc A và Nguyễn Văn D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 131/2023/HS-ST

Số hiệu:131/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về