TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 131/2023/HS-PT NGÀY 15/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 835/2022/TLHS-PT ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Đậu Thị Q và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án số 111/2022/HS-ST ngày 19-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
- Bị cáo kháng cáo:
1. Đậu Thị Q sinh ngày 24/10/1977; nơi sinh: huyện N, tỉnh Nghệ An; giới tính: Nữ; ĐKHKTT: khu phố 4, thị trấn V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nơi ở: khu phố L, thị trấn V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Đậu Quốc N (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có chồng là Trịnh Minh Đ và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam ngày 25/8/2021; có mặt.
2. Lò Văn U sinh ngày 01/01/1989; nơi sinh: huyện M, tỉnh Điện Biên; giới tính: Nam; ĐKHKTT: bản N, xã C, huyện M, tỉnh Điện Biên; nơi ở: khu phố L, thị trấn V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; dân tộc: Thái; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Lò Văn P và bà Lò Thị X có vợ là Lò Thị S và 02 con (con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại Bản án số 76/2022/HSST ngày 20/5/2022 của TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt Lò Văn U 09 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; bị tạm giữ, tạm giam ngày 25/8/2021; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Đậu Thị Q: Luật sư Bùi Thị Bích P - Công ty luật G, Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn U: Luật sư Bùi Thị H - Công ty luật N, Đoàn luật sư tỉnh Thanh Hóa; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 24/8/2021, tại khu vực trước cửa hàng xăng dầu Linh Sơn, thuộc thôn Phú Nham, xã Yến Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm (CSĐTTP) về ma túy Công an tỉnh Thanh Hóa bắt quả tang Đậu Thị Q và Lò Văn U có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, Q và U khai nhận: số ma túy trên là Heroine và Hồng phiến của Q đưa cho U đi giao cho khách mua ma túy nhưng chưa kịp giao thì bị bắt giữ, thu giữ tang vật chứng, đồ vật, tài sản gồm: - 02 khối hình hộp chữ nhật, kích thước (16x10x1,5) cm bọc bằng nilon màu trắng, chứa chất rắn màu trắng, nghi là ma túy;
- 47 túi nilon màu xanh và 12 túi nilon màu hồng bên trong mỗi túi nion đều chứa các viên nén màu đỏ, màu xanh hình trụ tròn nghi là ma túy;
- 01 xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, màu đỏ, BKS: 36A-274.46; - 01 điện thoại màn hình cảm ứng, màu xanh, nhãn hiệu Vivo, thu giữ của Lò Văn U;
- 01 điện thoại màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Samsung, màu đỏ, thu giữ của Đậu Thị Q.
Khám xét khẩn cấp quán Karaoke Trúc Xinh tại khu phố Long Vân, thị trấn Vân Du, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa (do Q làm chủ) phát hiện thu giữ:
- 01 túi nilon màu trắng có viền màu xanh kích thước khoảng (3x4) cm (thu tại mép cửa tầng 1) bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy;
- 01 túi nilon màu vàng bên trong chứa các viên nén màu xanh hình tam giác và các cục vụn màu xanh (thu phía sau lò vi sóng ở khu vực bếp) nghi là ma túy;
- 0 túi nilon màu trắng kích thước (05x10) cm bên trong chứa 09 túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa các tinh thể màu trắng và 02 túi nilon màu trắng bên trong chứa các cục bột viên màu xanh (thu tại ngăn kéo phía dưới tủ nhựa trong phòng tầng 3), trong mỗi túi đều chứa các tinh thể màu trắng;
+ 04 túi nilon màu trắng nghi là ma túy; + 05 túi nilon màu trắng viền xanh nghi là ma túy; + 02 túi nilon màu trắng bên trong đựng các cục bột màu xanh nghi là ma túy; - 01 túi nilon kích thước (20x30) cm bên trong đựng chất tinh thể màu trắng (thu tại ngăn tủ phía trên trong cùng phòng tầng 3) nghi là ma túy;
- 01 cân điện tử màu trắng-đen; 01 thẻ nhựa ngân hàng BIDV mang tên Lò Văn U (thu trong tủ tầng 3 ngoài cùng bên phải); - 01 đầu thu Camera tại cầu thang nhà nghỉ Trúc Xinh;
- Thu tại phòng ngủ của anh Trần Minh Đ (chồng Q) số tiền 50.000.000 đồng.
Tại bản kết luận số 2760/PC09, ngày 31/8/2021, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa:
- 02 khối hình hộp chữ nhật, kích thước (16x10x1,5) cm bọc bằng nilon màu trắng đều chứa chất rắn màu trắng là ma túy, khối lượng 675,814g loại Heroine;
- 59 túi nilon chứa các viên nén hình trụ màu xanh và 59 túi nilon chưa các viên nén hình trụ màu đỏ tổng khối lượng 1.203,094g loại Methamphetamine;
- 01 túi nilon màu trắng có viền màu xanh kích thước khoảng (3x4) cm (thu tại mép cửa tầng 1) bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy, khối lượng 0,160g loại Methamphetamine;
- 01 túi nilon màu vàng bên trong chứa các viên nén màu xanh hình tam giác và các cục vụn màu xanh (thu phía sau lò vi sóng ở khu vực bếp) là ma túy, khối lượng: 9,119g loại MDMA;
- 01 túi nilon màu trắng kích thước (05x10) cm bên trong chứa 09 túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa các tinh thể màu trắng và 02 ( hai) túi nilon màu trắng bên trong chứa các cục bột viên màu xanh (thu tại ngăn kéo phía dưới tủ nhựa trong phòng tầng 3) gồm:
+ 04 túi nilon màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 13,233g loại Methamphetamine;
+ 05 (năm) túi nilon màu trắng viền xanh là ma túy, có khối lượng 7,429g loại Ketamine;
+ 02 túi nilon màu trắng bên trong chứa các cục bột màu xanh là ma túy, khối lượng 1,832g loại MDMA;
- 01 túi nilon kích thước (20x30) cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (thu tại ngăn tủ phía trên trong cùng phòng tầng 3) là ma túy, khối lượng 82,520g loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, các bị can khai nhận:
Khoảng tháng 4/2021, thông qua mối quan hệ xã hội, Đậu Thị Q quen và đến nhà một người phụ nữ giới thiệu tên là Lò Thị Thập (không rõ họ Lò hay Lô mà khi chuyển tiền qua tài khoản thì ghi Lo Thi Thap), sinh năm 1988, ở huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An chơi. Tại đây Thập nói có hàng (tức ma túy), nếu có ai cần thì liên hệ với Thập, Thập bán cho rồi đem về mà bán kiềm lời. Sau đó Q ra về.
Đến ngày 04/8/2021, có một người phụ nữ lạ (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) gọi điện thoại cho Q, người này đặt mua của Q 02 bánh “khô” là ma túy loại heroin và 02 bánh “nước” là ma túy tổng hợp (hồng phiến). Giá 01 bánh Heroine là 200.000.000 đồng, 02 bánh 400.000.000 đồng; giá 01 bánh hồng phiến là 41.000.000 đồng, 02 bánh là 82.000.000 đồng.
Biết Thập có ma túy bán với giá Heroin là 180.000.000 đồng/01 bánh, giá ma túy hồng phiến là 40.000.000 đồng/01 bánh. Q thấy có lợi nhuận nên đã đồng ý nhận lời. Sau đó, Đậu Thị Q điện thoại cho Lò Thị Thập đặt mua 02 bánh ma túy loại Heroin và 02 bánh ma túy loại hồng phiến với tổng giá là 440.000.000 đồng, Q chuyển tiền trả trước cho Thập là 420.000.000 đồng, nợ lại 20.000.000 đồng.
Khoảng ngày 07 đến ngày 18/8/2021 (không nhớ ngày cụ thể), Q đi ra Ngân hàng ở thị trấn Kim Tân, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa để chuyển tiền, khi đi gần đến cổng Ngân hàng thì gặp một người đàn ông khoảng 40 đến 50 tuổi, cao khoảng 1m67, màu da đen (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) đang có nhu cầu vào rút tiền mặt. Người đàn ông này hỏi Q: “Chị muốn đi gửi tiền à?”, Q nói “đúng rồi”. Người này nói Q đưa tiền mặt cho người đàn ông này, còn người này sẽ chuyển tiền bằng dịch vụ SmartBanking trên điện thoại cho Q. Cả hai thống nhất Q đưa số tiền mặt 420.000.000 đồng cho người đàn ông này, đồng thời đọc số tài khoản của Thập để người này chuyến số tiền 420.000.000 đồng bằng dịch vụ SmartBanking trên điện thoại. Sau đó Q điện thoại hỏi Thập “đã nhận được tiền chưa?”, Thập báo đã nhận được số tiền 420.000.000 đồng.
Sáng ngày 23/8/2021, Lò Thị Thập điện thoại báo cho Q đã có ma túy và yêu cầu Q vào huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An để nhận. Khoảng 14 giờ chiều ngày 23/8/2021, Q mượn xe ô tô BKS 36A - 274.46 của anh Trịnh Minh Hợp, sinh năm 1982, trú tại:
Khu phố 3 thị trấn Vân Du, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa chở Lò Văn U, Lê Văn M đều sinh năm 1973, đều trú tại thị trấn V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và Bùi Thị Y, sinh năm 1996, trú tại xã Q, huyện L, tỉnh Hòa Bình nói vào nhà bà ngoại của Q, tên Lò Thị B, sinh năm 1931, trú tại: bản C, xã B, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An chơi, nhưng thực chất là Q vào Nghệ An để nhận ma túy của Thập.
Trên đường đi từ Thanh Hóa vào Nghệ An, Thập gọi điện thoại cho Q hẹn Q đến khu vực Cầu Rào 1, thuộc địa phận xã Xá Lượng, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An để nhận hàng (ma túy), đồng thời Thập nói cho Q biết là ngoài số ma túy Q đã đặt mua thì Thập cho thêm Q 06 viên thuốc lắc, 01 túi hồng phiến, 08 túi Ketamine và 05 túi ma túy đá.
Sau khi vào nhà bà ngoại Q khoảng 15 đến 20 phút, Q lái xe chở U, M và Y đến quán phở (không nhớ tên quán, địa chỉ) cách nhà bà ngoại Q khoảng 15 km để ăn phở. Lúc này Q nói với U, M, Y là Q đi có chút việc rồi sẽ quay lại, nói xong Q một mình lái xe ô tô đi đến Cầu Rào 1, cách quán phở khoảng 200 đến 300m, Q thấy có một người đàn ông mặc áo mưa đứng bên đường trên tay xách 01 túi nilon màu đen, Q đoán là người giao ma túy của Thập. Q dừng xe lại bên đường thì người này đi lại mở cốp xe của Q và bỏ túi nilon màu đen có chứa ma túy vào rồi lên xe máy đi đâu Q không biết. Còn Q lái xe quay lại chỗ U, M, Y đang ăn phở, sau đó cả nhóm đi về thành phố Thanh Hóa.
Đến sáng ngày 24/8/2021 về đến nhà Q, lúc này U, M, Y đi vào trong nhà, Q một mình ở lại xe ôtô mở túi nilon màu đen lấy túi kẹo (thuốc lắc), Ketamine và ma túy đá ra rồi buộc túi nilon có chứa 02 bánh heroin và 02 bánh hồng phiến lại để nguyên trong cốp xe ô tô. Q đem túi nilon ma túy vào trong phòng ngủ một mình mở túi ma túy ra lấy 06 viên thuốc lắc, 08 túi Ketamine và 03 túi ma túy đá bỏ vào trong hộp nhựa, còn lại 02 túi ma túy đá Q cất ở mép cửa phòng ngủ của mình và 01 túi ma túy hồng phiến cất giấu ở phía sau lò vi sóng của nhà Q.
Khoảng trưa ngày 24/8/2021, Q điện thoại cho Lò Văn U (lúc này U đang ở phòng trên tầng 3) nói giao cho U một ít ma túy để bán cho khách kiếm lời và bảo U đi xuống khu lễ tân tầng 1 cầm hộp nhựa bên trong có chứa ma túy đá, kẹo và Ketamine. Lò Văn U đi xuống khu lễ tân tầng 1 cầm chiếc hộp nhựa đang để ở trụ cầu thang lên mở ra kiểm tra, bên trong có các loại ma túy nU trên đem về ngăn kéo của tủ quần áo cất giấu.
Chiều ngày 24/8/2021, Đàm Quang C, sinh năm 1991, trú tại huyện Q, tỉnh Ninh Bình gọi điện cho Q hỏi mua 01 chỉ Ketamine và 04 viên Kẹo. Q nói “cứ vào đi”. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Đàm Quang C vào đến quán Trúc Xinh thì có một nhân viên nữ mở cửa và dẫn lên Phòng hát Karaoke số 6. Đàm Quang C điện thoại cho Q nhưng Q không nghe điện thoại.
Khoảng 16 giờ ngày 24/8/2021, Q điện thoại bảo U ở nhà có ai hỏi mua hàng (tức ma túy) thì bán cho họ 01 chỉ Ketamine và 04 viên Kẹo, giá tiền 5.100.000 đồng, sau đó Q đi chợ. U mở hộp màu trắng để trong ngăn kéo tủ lấy số ma túy trên mang xuống tầng và thấy khách ở Phòng Vip 6 nên U đưa cho một người con gái (sau này biết là Dương Thị L1) và báo giá là 5.100.000 đồng, nhưng Loan nói để khi thanh toán tiền phòng sẽ trả luôn tiền ma túy.
Khoảng 21 giờ ngày 24/8/2021, Q lấy 01 túi ma túy đá giấu ở mép cửa phòng ngủ của mình rồi điện thoại cho U xuống bệ cầu thang tầng 1 cầm túi “nước” (tức ma túy đá) đem lên phòng cất giấu. U đi xuống cầu thang tầng 1 thì thấy 01 túi nilon, bên trong có ma túy đá Q để ở bệ cầu thang, U đem lên phòng cất giấu.
Khoảng 21 giờ 15 phút thì có khách nữ là Dương Thị L1 ở Phòng Vip 6 gọi U xuống chỉnh nhạc. U đi xuống Phòng Vip 6 chỉnh nhạc cho khách xong thì L1 nhờ U xào túi Ketamin đang để trên bàn cho khách trong phòng sử dụng, lúc này trên bàn có sẵn đĩa, thẻ nhựa, ống hút và 01 túi Ketamine, U dùng bật lửa hơ cho nóng đĩa rồi đổ túi Ketamine lên, dùng thẻ nhựa đảo Ketamine. Thấy U xào xong Ketamine, L1 mời U sử dụng cho vui nên U cũng tự nâng đĩa Ketamine lên và hút vào miệng 01 đến 02 đường Ketamine, sau đó U lên phòng ngủ tầng 3.
Khoảng 20 giờ ngày 24/8/2021, người phụ nữ đã hỏi đặt mua ma túy của Q gọi điện thoại hỏi có ma túy chưa, Q nói có rồi. Người phụ nữ nói Q đem ma túy xuống siêu thị Big C thành phố Thanh Hóa để giao, nhưng Q không đồng ý, Q hẹn giao dịch tại khu vực trước cửa hàng xăng dầu Linh Sơn thuộc xã Yến Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 24/8/2021, Đậu Thị Q điện thoại cho Lò Văn U (đang ở tầng 3) đi công việc với Q, Q lên xe ngồi ở vị trí ghế lái để đợi U, U lên xe ngồi ở dãy ghế sau bên phụ. Lúc này Q để túi ma túy ở vị trí giữa hai ghế phía sau. U hỏi Q đi đâu? Q trả lời đi giao ma túy cho khách ở Hà Trung. Khi đang trên đường đi thì Trương Thùy L2 là nhân viên quán nhắn tin Messgenger cho Lò Văn U nói là có khách ở Phòng VIP 3 muốn mua 2.000.000 đồng ma túy Ketamine. U nói với Q là có khách hỏi mua 2.000.000 đồng Ketamine, lúc này Q đang lái xe không biết có nghe U nói hay không, nhưng Q không nói gì. U gọi điện thoại cho Bùi Thị Ă hướng dẫn Ă lên phòng U lấy nửa chỉ Ketamin trong hộp đem xuống cho khách hát ở Phòng VIP 3. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 24/8/2021, Q lái xe ô tô chở U đến khu vực cửa hàng xăng dầu Linh Sơn thuộc thôn Phú Nham, xã Yến Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Q bảo U cầm túi ma túy xuống để giao cho khách, nhưng chưa giao được cho khách thì bị Tổ công tác phòng CSĐT tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Thanh Hóa bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy trên.
Đối với người phụ nữ (theo Q khai là khách mua ma túy), Q không biết tên, tuổi địa chỉ, không nhớ số điện thoại, Q cũng chưa gặp người này lần nào, do đó Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh, làm rõ để xử lý trong vụ án. Đối với người giao ma túy cho Q tại vị trí Cầu Rào 1 ở tỉnh Nghệ An, người này mặc áo mưa, trùm kín đầu, mặt, Q không biết rõ là nam hay nữ, họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Do đó Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ xác minh, làm rõ để xử lý trong vụ án.
Đối với người đàn ông mà Q khai là đã nhận tiền của Q để chuyển cho Thập ở gần Ngân hàng thị trấn Kim Tân, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, Q không biết tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại. Các số tài khoản 9704229273829536 đứng tên Lo Thi Thap; số tài khoản 9704229260915710 đứng tên Lo Van Duy và số tài khoản 9704229206178998460 mang tên Lo Văn Bien, Cơ quan điều tra đã nhiều lần gửi công văn đến Ngân hàng quân đội MB và Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel để tra cứu thông tin chủ tài khoản. Đến nay chỉ có Ngân hàng quân đội (MB) trả lời không thuộc quyền quản lý. Còn Tổng công ty công nghiệp Viễn thông quân đội Viettel chưa trả lời kết quả. Do đó không có đủ căn cứ xác minh, làm rõ để xử lý trong vụ án.
Lò Văn U là người được Q giao cho quản lý Quán Karaoke “Trúc Xinh”, U có hành vi cung cấp ma túy cho Phòn g VIP6, chỉ đạo Trương Thùy L2 cung cấp dụng cụ sử dụng ma túy cho Phòng VIP6, Phòng VIP3 và xào Ketamin tại phòng VIP 6; U hướng dẫn Bùi Thị Ă lên phòng U lấy nửa chỉ Ketamin trong hộp đem xuống cho khách hát ở Phòng VIP 3; Trương Thùy L2 có hành vi giúp sức cho Lò Văn U và cùng với Lò Văn U, Đàm Quang C, Dương Thị L1, Nguyễn Văn D và một số đối tượng khác có hành vi “Tổ chứ c sử dụng trái phép chất ma túy” tại Phòng VIP3 và Phòng VIP6 quán Karaoke “Trúc Xinh”. Lò Văn U, Bùi Thị Ă, Trương Thùy L2, Dương Thị L1, Đàm Quang C và một số đối tượng khác đã bị khởi tố, điều tra và bị xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2022/HSST ngày 20/5/2022 của TAND tỉnh Thanh Hóa (đã có hiệu lực).
Lò Thị Q không biết Đàm Quang C vào mua ma túy là để sử dụng ngay tại Phòng VIP6 và không biết việc Nguyễn Văn D thuê phòng VIP3 để tổ chức sử dụng trái phát chất ma túy tại đây, do đó không đủ căn cứ xử lý Q về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Đối với người phụ nữ tên Lo (Lò hay Lô) Thị Thập (Q khai người bán ma túy cho Q), cao khoảng 1m50, màu da trắng, nhà ở huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, Q đã đến nhà Thập một lần, Thập giới thiệu có chồng là Lò Văn Duy và hai con. Số điện thoại của Thập là 0817246769 và 0856041862. Cơ quan điều tra đã tiến hành rút list điện thoại tại Tổng công ty Viễn thông VNPT, kết quả chủ thuê bao là Lương Văn T, sinh năm 1972, nơi cư trú: xã Y, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An và Mộng Văn H, sinh năm 1968, nơi cư trú: Xã Xá Lương, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Cơ quan điều tra đã tiến hành Ủy thác cho Công an huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An điều tra, kết quả: Lương Văn Thoong và Mộng Văn Hoàn có địa chỉ thường trú tại xã Y, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An và X, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, nhưng hiện không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết T và H, làm gì, ở đâu. Do đó không đủ căn cứ để xử lý đối với Lương Văn T, Mộng Văn H trong vụ án này. Cơ quan điều tra sẽ tách tài liệu đối với T và Hoàn để tiếp tục xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý trong vụ án khác.
Về xử lý vật chứng: - Đối với vật chứng là chất ma tuý sau khi giám định, Cơ quan điều tra chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa chờ xử lý;
- Đối với số tiền 50.000.000 đồng thu tại phòng ngủ của Trịnh Minh Đạo (chồng Q): theo lời khai Đậu Thị Q số tiền này do Q buôn bán Shop quần áo tại thị trấn Vân Du, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội của Q. Tuy nhiên để đảm bảo thi hành án dân sự trong vụ án đối với Q, Cơ quan điều tra chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa chờ xử lý. - Đối với chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Samsung, màu đỏ, thu giữ của Đậu Thị Q và chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu xanh, nhãn hiệu Vivo, thu giữ của Lò Văn U, quá trình điều tra, Đậu Thị Q và Lò Văn U khai nhận dùng để phục vụ sinh hoạt cá nhân và liên hệ mua, bán ma túy Cơ quan điều tra chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa chờ xử lý.
- Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, màu đỏ, BKS: 36A-xxx.46 đăng ký mang tên Trịnh Minh H, sinh năm 1982, cư trú: khu phố 3, thị trấn V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (em chồng của Q). Ngày 23, ngày 24/8/2021, Q đã mượn, sử dụng xe ô tô này đi mua bán ma túy, nhưng ông H hoàn toàn không biết và không có liên quan đến hành vi phạm tội của Q. Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thanh Hóa đã trả lại chiếc xe ô tô nêu trên cho ông Trịnh Minh H.
Tại Bản án số 111/2022/HS-ST ngày 19-7-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã:
- Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 40 Bộ luật hình sự; xử phạt Đậu Thị Q tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung bị cáo Đậu Thị Q 50.000.000 đồng.
- Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 40; điểm d khoản 1 Điều 55; Điều 56 Bộ luật hình sự; xử phạt Lò Văn U tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tổng hợp với hình phạt 09 năm tù tại Bản án số 76/2022/HSST ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo Lò Văn U chấp hành hình phạt chung củ a hai bản án là tử hình.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định việc xử lí vật chứng, về án phí theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 28-7-2022, bị cáo Đậu Thị Q kháng cáo xin giảm hình phạt (hình phạt chính).
- Ngày 25-7-2022, bị cáo Lò Văn U kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Đậu Thị Q có ý kiến không nhờ luật sư bào chữa, bị cáo tự bào chữa cho bị cáo.
Các bị cáo Đậu Thị Q và Lò Văn U khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị xem xét chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt cho các bị cáo xuống tù chung thân, với lí do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo U phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức, do bị rủ rê, lôi kéo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có ý kiến căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Đậu Thị Q và Lò Văn U về tội “Mua bán tái phép chất ma túý” là có căn cứ, không oan. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; khối lượng ma túy các bị cáo mua bán trái phép lớn; các bị cáo còn phạm vào tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với các bị cáo là đúng; đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Lò Văn U đề nghị xem xét việc bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm; do bị rủ rê, lôi kéo, không được hưởng lợi; bị cáo là người dân tộc, sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, để giảm hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 24/8/2021, tại khu vực cửa hàng xăng dầu Linh Sơn, thuộc thôn Phú Nham, xã Yến Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Đậu Thị Q và Lò Văn U bị bắt quả tang đang có hành vi mang ma túy đi bán gồm 675,814 gam loại Heroine và 1.203,094 gam loại Methamphetamine.
Quá trình khám xét tại Quán Karaoke “Trúc Xinh” do Đậu Thị Q làm chủ, Cơ quan CSĐT còn thu giữ được số ma túy do Q cất giấu để bán gồm: tại mép cửa phòng ngủ tầng 1 là 0,160gam loại Methamphetamine, tại phía sau lò vi sóng là 9,119 gam loại MDMA và số ma túy Q đưa cho Lò Văn U cất giấu để bán gồm: tại ngăn kéo phía dưới tủ nhựa trong phòng tầng 3 Methamphetamine là 13,233gam, MDMA là 1,832g và Ketamine là 7,429 gam và tại ngăn tủ phía trên cùng trong tủ đựng quần áo trong phòng tầng 3 là 82,520 gam loại Methamphetamine. Trong quá trình giải Q vụ án, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Đậu Thị Q phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng khối lượng ma túy các loại gồm: Heroine là 675,814gam, Methamphetamine là 1.299,007 gam, MDMAlà 10,951gam (tổng 03 loại là: 1.985,772 gam) và Ketamine là 7,429 gam.
Lò Văn U phải chịu trách nhiệm hình sự về số ma túy bị bắt quả tang khi đang mang đi giao cho khách cùng với Đậu Thị Q tại khu vực cửa hàng xăng dầu Linh Sơn, ngoài ra U còn phải chịu trách nhiệm về số ma túy Q đưa cho U cất giấu để bán đã thu giữ tại Quán Karaoke “Trúc Xinh” gồm: tại ngăn kéo phía dưới tủ nhựa trong phòng tầng 3 (Methamphetamine là 13,233gam, MDMA là 1,832gam và Ketamine là 7,429gam) và tại ngăn tủ phía trên cùng trong tủ đựng quần áo trong phòng tầng 3 là 82,520 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy Lò Văn U phải chịu trách nhiệm gồm: Heroine là 675,814gam, Methamphetamine là 1.297,847 gam, MDMA là 1,832 gam (tổng 03 loại là 1.976,493 gam) và Ketamine là 7,429 gam.
Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án các bị cáo Đậu Thị Q và Lò Văn U về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, không oan.
Đậu Thị Q giữ vai trò chính, là người trực tiếp giao dịch mua bán ma túy, sau khi thống nhất giá cả, số lượng ma túy với khách mua, Q điện thoại đặt mua 02 bánh ma túy loại Heroin (khối lượng 675,814g) và 02 bánh ma túy loại Methamphetamine (khối lượng 1.203,094g) với người có tên theo Q khai là Lò (hay Lô) Thị Thập để bán cho người khác. Q trực tiếp lái xe ô tô vào huyện Tương Dương nhận hàng. Sau khi lấy được ma túy, Q tự cất giấu một phần và giao cho Lò Văn U cất giấu một phần gồm: 95,753 gam Methamphetamin, 1,832 gam MDMA và 7,429 gam Ketamine tại quán để bán lẻ cho khách và chỉ đạo U cùng đi với Q đến khu vực cửa hàng xăng dầu Linh Sơn để giao 02 bánh Heroine và 02 bánh Methamphetamin cho khách đã đặt mua, trên đường đi Q chỉ đạo U bán ma túy cho Đàm Văn Chung là khách đến hát tại quán.
Lò Văn U là đồng phạm có vai trò giúp sức tích cực cho Q, U vừa quản lý nhân viên tại quán, vừa trực tiếp cất giấu ma túy và cung cấp cho các phòng hát theo chỉ đạo của Q, giúp khách “xào” mà túy và cùng với Q mang ma túy ra bên ngoài đi bán và bị bắt quả tang. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, các bị cáo còn phạm vào tình tiết tăng nặng là “Phạm tội từ 02 lần trở lên”.
Về các tình tiết giảm nhẹ: quá trình giải quyết vụ án, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình các bị cáo đều có công với cách mạng, cụ thể: Đậu Thị Q có bố đẻ là ông Đậu Quốc N (tên gọi khác Đậu Đình N) được Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An tặng Bằng khen do có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ, bố chồng là ông Trịnh Minh Đ được nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương, Giấy khen do có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ, là đ ảng viên được tặng huy hiệu 50 năm tuổi Đảng đợt 19/5/2019; ông Trịnh Minh T (em của mẹ chồng) là Liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, ông Trịnh Huy H (em của bố chồng) là Liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ (gia đình bị cáo đang thờ cúng). Gia đình Lò Văn U là hộ nghèo, có Liệt sĩ Lò Văn L (bác ruột) hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, ông Lò Văn T (bố vợ) có Giấy chứng nhận của Bộ tư lệnh Quân khu 2 về việc tham gia dân công hỏa tuyến; đây là các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết của vụ án, vai trò, mức độ phạm tội của từng bị cáo và tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, áp dụng mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đối với hai bị cáo là đúng pháp luật. Không có căn cứ giảm hình phạt đối với các bị cáo Q và U.
Đối với Lò Văn U: ngoài việc bị kết án tại bản án này, trước đó bị cáo còn bị kết án 09 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” tại Bản án số 76/2022/HSST ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (đã có hiệu lực), nên bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của nhiều bản án theo quy định.
[2]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
[3]. Về án phí: các bị cáo phải nộp án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đậu Thị Q, Lò Văn U và giữ nguyên Bản án số 111/2022/HS-ST ngày 19-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa như sau:
1. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 40 Bộ luật hình sự; xử phạt Đậu Thị Q tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
2. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 40; điểm d khoản 1 Điều 55; Điều 56 Bộ luật hình sự; xử phạt Lò Văn U tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tổng hợp với hình phạt 09 năm tù tại Bản án số 76/2022/HSST ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo Lò Văn U chấp hành hình phạt chung của hai bản án là tử hình; tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.
4. Các bị cáo Đậu Thị Q, Lò Văn U mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí phúc thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Đậu Thị Q và Lò Văn U được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 131/2023/HS-PT
Số hiệu: | 131/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về