TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 128/2023/HS-ST NGÀY 31/10/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2023 tại Tòa án nhân dân tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 107/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Dương Minh H - sinh ngày: 05/8/2000, tại tỉnh B; nơi thường trú: thôn C, xã V, huyện V, tỉnh bắc Giang; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Văn T và bà: Trần Thị X; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/4/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Dương Minh H: Ông Đặng Duy M- Luật sư Văn phòng L3, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q, địa chỉ: P- Tháp B chung cư L, phường T, thành phố H, tỉnh Q, có mặt.
2. Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy D - sinh ngày: 25/8/2001, tại tỉnh B; nơi thường trú: thôn H, xã T, huyện L, tỉnh B; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu T1 và bà: Bùi Thị L; chưa có chồng con; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thùy D: Ông Đặng Hồng P- Luật sư Công ty L4, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q, địa chỉ: số E N, phường H, thành phố H, tỉnh Q, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt và có gửi bài bào chữa).
3. Họ và tên: Tô Văn S - sinh ngày: 25/4/2001, tại tỉnh Q; nơi thường trú: thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Q; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: lớp 11/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tô Văn T2 và bà: Đinh Thị P1; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt quả tang và bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Tô Văn S: Bà Tô Phương T3- Luật sư Công ty L5, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q, địa chỉ: số E, H, phường H, thành phố H, tỉnh Q, có mặt.
4. Họ và tên: Hoàng Hùng L1 - sinh ngày: 15/01/2006, tại tỉnh Q; nơi thường trú: phố L, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Đức M1 và bà: Chương Thị K; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị Hoàng Hùng L2: Ông Hoàng Đức M1, sinh năm 1979 và bà Chương Thị K, sinh năm 1978; cùng địa chỉ: phố L, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Hùng L2: Ông Trần Quý C, sinh năm 1982, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Q, có mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Sềnh Văn H1, sinh năm 1984, vắng mặt.
2. Chị Trần Thị X1, sinh năm 1995, vắng mặt.
3. Anh Lưu Đức H2, sinh năm 1996, vắng mặt.
4. Anh Vũ Mạnh H3, sinh năm 1979, vắng mặt.
5. Ông Hoàng Văn Q, sinh năm 1957, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/4/2023, tại Tổ C, phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Q phát hiện bắt quả tang Tô Văn S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: T4 trên tay của S 01 túi nylon chứa 10 viên ma túy dạng viên nén, kết quả giám định là ma túy MDMA có tổng khối lượng 4,395 gam và 01 túi nylon chứa chất tinh thể mầu trắng, kết quả giám định là ma túy Ketamine có khối lượng 0,698 gam (Kết luận giám định số 454 ngày 17/4/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Q).
S khai số ma túy trên S đang trên đường mang đi gửi xe ô tô khách ra thành phố M, tỉnh Q để bán cho một phụ nữ tên là H4 (không biết lai lịch địa chỉ) thì bị bắt. Ngoài ra S khai, trước đó S còn cùng với Hoàng Hùng L2 nhiều lần bán ma túy cho nhiều người khác. Nguồn gốc ma túy do S mua của Nguyễn Thị Thùy D.
Ngày 11/4/2023, Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Hoàng Hùng L2 và Nguyễn Thị Thùy D. D khai nhận nguồn gốc ma túy bán cho S do D mua của Dương Minh H.
Ngày 15/4/2023, Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Dương Minh H, thu giữ của H 01 túi nylon chứa 1,483gam chất tinh thể mầu trắng và khám xét nơi ở của H tại phòng D lô D tổ dân phố M, thị trấn N, huyện V, tỉnh B, thu giữ 01 túi nylon đều chứa 8,237 gam chất tinh thể mầu trắng, kết quả giám định đều là chất ma túy Ketamine. (Kết luận giám định số 478 ngày 20/4/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Q).
Quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:
1. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Dương Minh H và Nguyễn Thị Thùy D:
Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2022 đến ngày 06/4/2023, Dương Minh H đã mua ma túy thuốc lắc và ma túy Ketamine của một phụ nữ tên là Y và 02 người đàn ông (không biết lai lịch địa chỉ). Sau khi mua được số ma túy trên H đã 04 lần bán cho Nguyễn Thị Thùy D và sau đó D cũng 04 lần bán lại cho Tô Văn S để kiếm lời. Cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 11/2022, H giao và chỉ đạo đối tượng tên là V (không biết lai lịch địa chỉ) mang 15 viên ma túy thuốc lắc, 10 gam ma túy Ketamine đến khu vực Chợ M, thị trấn N, huyện V, tỉnh B bán cho Nguyễn Thị Thùy D với giá 13.750.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, D mang về xã H, huyện T, tỉnh Q bán cho Tô Văn S với giá gốc (13.750.000 đồng) vì có quen biết từ trước và được S trả thêm cho D 400.000 đồng tiền công đi mua ma túy. Trong lần mua bán ma tuý này H không hưởng lãi.
- Lần thứ hai: Vào khoảng cuối tháng 2/2023, H tiếp tục giao và chỉ đạo V mang 10 gam ma túy Ketamine gửi xe ô tô khách về thành phố H, tỉnh Q để bán cho D với giá 10.000.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, D lại gửi ma túy theo xe ô tô khách ra huyện T bán cho S với giá gốc. Trong lần mua bán này H và D không hưởng lãi.
- Lần thứ ba: Ngày 12/3/2023, tại B, thành phố H, H trực tiếp bán cho D 35 viên ma túy thuốc lắc và 20 gam ma túy Ketamine với giá 28.050.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, D mang đến cầu K, thị trấn T bán cho S với giá 28.750.000 đồng và được S trả công 1.250.000, tổng cộng D được hưởng 1.950.000 đồng. Trong lần mua bán ma tuý này H hưởng lãi 6.800.000 đồng.
- Lần thứ tư: Ngày 06/4/2023, cũng tại bến xe khách B, thành phố H, H bán cho D 55 viên ma túy thuốc lắc với giá 12.650.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, D gửi xe ô tô khách ra huyện T bán lại cho S với giá 13.700.000 đồng. Trong lần mua bán ma tuý này H hưởng lãi 1.650.000 đồng, D được hưởng lãi 1.050.000 đồng.
2. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Tô Văn S và Hoàng Hùng L2:
- Sau khi mua được số ma túy của Nguyễn Thị Thùy D từ tháng 11/2022 đến ngày 12/3/2023 nêu trên, Tô Văn S mang về bán cho nhiều người để kiếm lời. Trong đó, S chỉ nhớ được 05 lần bán cho Sềnh Văn H1, Trần Thị X1, Lưu Đức H2 tổng cộng 08 viên ma túy thuốc lắc, 02 gam ma túy Ketamine. Trong số ma túy này, S trực tiếp bán 02 lần cho Sềnh Văn H1 tổng cộng 06 viên ma túy thuốc lắc; S đưa ma túy và chỉ đạo Hoàng Hùng L2 mang đi bán 03 lần cho Sềnh Văn H1, Trần Thị X1, Lưu Đức H2 tổng cộng 02 viên ma túy thuốc lắc, 02 gam ma túy Ketamine. Cụ thể như sau:
+ Khoảng cuối tháng 3/2023 và ngày 10/4/2023, S đến nhà Sềnh Văn H1 ở thôn H, xã H, huyện T, bán 02 lần tổng cộng 06 viên ma túy thuốc lắc với giá 2.700.000 đồng cho H1. Trong đó: Cuối tháng 3/2023 S bán cho H1 02 viên ma túy thuốc lắc với giá 900.000 đồng; ngày 10/4/2023, S bán cho H1 04 viên ma túy thuốc lắc với giá 1.800.000 đồng.
+ Từ ngày 21/3/2023 đến ngày 02/4/2023, S đưa cho L2 03 lần tổng cộng 02 gam ma túy Ketamine, 02 viên ma túy thuốc lắc mang bán cho Sềnh Văn H1, Trần Thị X1 và Lưu Đức H2 với giá 5.200.000 đồng. Trong đó: Ngày 31/3/2023, S đưa cho L2 01 gam ma túy Ketamine mang đến nhà H1 bán cho H1 với giá 2.200.000 đồng. Ngày 21/3/2023, S đưa cho L2 02 viên ma túy thuốc lắc mang đến quán Karaoke Chiều T5 ở phố T, thị trấn T bán cho Trần Thị X1 với giá 1.000.000 đồng. Ngày 02/4/2023, S đưa cho L2 01 gam ma túy Ketamine mang đến cây xăng L, thị trấn T bán cho Trần Thị X1 và Lưu Đức H2 với giá 2.000.000 đồng. Trong 03 lần này S trả cho L2 450.000 đồng tiền công.
- Đối với 55 viên ma túy thuốc lắc S mua của D ngày 06/4/2023, S bảo L2 đi nhận mang về giao lại cho S, S giữ lại 05 viên và đưa cho L2 50 viên bảo L2 cất giấu hộ khi nào có khách hỏi mua thì S bảo L2 mang đi bán cho khách. Từ ngày 06/4/2023 đến ngày 09/4/2023 theo sự chỉ đạo của S, L2 đã bán ma túy thuốc lắc cho nhiều người, nhưng cả S và L2 đều không nhớ bán cho ai, bán được bao nhiêu. Đến ngày 09/4/2023 L2 mang số ma túy thuốc lắc còn lại đưa cho S. Ngày 11/4/2023 S mang số ma tuý còn lại là 10 viên ma túy thuốc lắc cùng 01 túi nylon chứa 0,698 gam ma túy Ketamine để gửi xe ô tô khách ra thành phố M, tỉnh Q bán cho một phụ nữ tên là H4, khi đi đến Tổ C, phố T, thị trấn T thì bị Công an tỉnh Q phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng toàn bộ vật chứng.
Theo nguyên tắc có lợi, thì 50 viên ma túy thuốc lắc H bán cho D, sau đó D bán cho S từ tháng 11/2022 đến ngày 12/3/2023 không thu giữ được, nên không xác định được khối lượng và loại ma túy. Còn 55 viên ma túy thuốc lắc các bị cáo mua bán vào ngày 06/4/2023, Cơ quan điều tra đã thu giữ được 10 viên, nên bị cáo S và L2 đã bán được 45 viên. Kết quả giám định 10 viên ma túy thuốc lắc trên là ma túy MDMA có tổng khối lượng 4,395 gam, do đó khối lượng trung bình của 01 viên ma túy này là 0,4395 gam (4,395 gam/10); 45 viên ma túy S và L2 đã bán có tổng khối lượng là 19,777 gam (45 x 0,4395). Vậy, 55 viên ma túy thuốc lắc H bán cho D, sau đó D bán cho S là ma túy MDMA có tổng khối lượng là 24,172 gam (4,395 gam + 19,777 gam).
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D, Tô Văn S và Hoàng Hùng L2 khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án nêu trên.
Những người làm chứng: anh Sềnh Văn H1, chị Trần Thị X1, anh Lưu Đức H2, anh Vũ Mạnh H3, và ông Hoàng Văn Q, vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo về nội dung vụ án.
Tại Cáo trạng số 114/CT-VKSQN-P1 ngày 12/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã truy tố: Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D và Tô Văn S về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Hoàng Hùng L2 về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q giữ nguyên Cáo trạng truy tố các bị cáo: Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D, Tô Văn S và Hoàng Hùng L2 về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý" và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- Điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt Dương Minh H từ 16 năm đến 17 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 15/4/2023.
+ Xử phạt Nguyễn Thị Thùy D từ 15 năm đến 16 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 12/4/2023.
- Điểm h khoản 3 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt Tô Văn S từ 16 năm đến 17 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 11/4/2023.
- Điểm b, p khoản 2 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91 và khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt Hoàng Hùng L2 từ 05 năm đến 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 11/4/2023.
Về vật chứng: đề nghị:
- Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong 02 phong bì niêm phong số 454/KL-KTHS và số 478/KL-KTHS; 01 (một) túi xách nilon màu đỏ, 01 (một) hộp giấy hình chữ nhật màu xanh, vỏ hộp có chữ JINGPNVXIE, 01 (một) vỏ hộp bánh Chocopie và 01 (một) túi giả da màu đen có quai xách thu giữ của bị cáo S; 01 (một) túi da màu đen, 01 (một) cân điện tử, 07 (bảy) vỏ túi nilon trong suốt, kích thước khoảng (11,5x7)cm và 50 (năm mươi) vỏ túi nilon trong suốt, kích thước khoảng (2,5x2,5)cm thu giữ của bị cáo H; 05 sim điện thoại (của 05 chiếc điện thoại bị tịch thu sung ngân sách Nhà nước).
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 14.600.000 đồng thu giữ của bị cáo S và H (trong đó của S là 12.100.000 đồng, của H là 2.500.000 đồng) và 05 điện thoại di động các loại gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng - đen thu giữ của bị cáo S; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi xám thu giữ của bị cáo L2; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh đen thu giữ của bị cáo D; 02 (hai) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh đen thu giữ của bị cáo H.
- Trả lại cho bị cáo D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng đen, mặt sau bị vỡ + 01 (một) sim, 01 (một) Chứng minh nhân dân và 01 (một) thẻ ATM ngân hàng V1 mang tên Nguyễn Thị Thùy D; trả lại cho bị cáo H 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân và 01 (một) thẻ ATM ngân hàng M2 mang tên Dương Minh H.
Truy thu của các bị cáo số tiền thu lợi bất chính để sung Ngân sách Nhà nước.
Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
Quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo: những người bào chữa cho các bị cáo: Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D, Tô Văn S và Hoàng Hùng L2, đều nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q về tội danh, điều khoản đã truy tố, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Về hình phạt, những người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về hoàn cảnh gia đình, nhân thân của các bị cáo; đối với S là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật rất hạn chế, có ông bà nội và ông ngoại là người có công với Nhà nước; bị cáo L2 là người chưa thành niên phạm tội, có ông bà nội và bà ngoại là người có công với Nhà nước; các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, nên đề nghị Hội đồng xét xử xử các bị cáo mức án thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị để các bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích.
Tại phiên tòa các bị cáo H, D, S và L2 đồng tình quan điểm của những người bào chữa, không có ý kiến bổ sung; các bị cáo H, D, S và L2 không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q và bản luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng: các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đà được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: tại phiên tòa các bị cáo Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D, Tô Văn S và Hoàng Hùng L2 khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, phù hợp với Kết luận giám định số 454 ngày 17/4/2023, số 478 ngày 20/4/2023 và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:
Từ đầu tháng 11/2022 đến ngày 11/4/2023, tại địa bàn thành phố H, huyện T, tỉnh Q và khu vực Chợ M, thị trấn N, huyện V, tỉnh B, Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D, Tô Văn S và Hoàng Hùng L2 đã có hành vi phạm tội, như sau:
- Dương Minh H đã 04 lần có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Thị Thùy D 24,172 ma túy MDMA (55 viên ma túy thuốc lắc), 40 gam ma túy Ketamine và 50 viên ma túy không xác định được khối lượng và loại; Ngoài ra H còn tàng trữ 9,72 gam ma túy Ketamine mục đích để bán thì bị Cơ quan điều tra phát hiện thu giữ cùng vật chứng. Tổng cộng, H đã bán và tàng trữ để bán trái phép 24,172 ma túy MDMA; 49,72 gam ma túy Ketamine và 50 viên ma túy không xác định được khối lượng, chủng loại.
- Nguyễn Thị Thùy D đã 04 lần có hành vi bán trái phép cho Tô Văn S 24,172 gam ma túy MDMA (55 viên ma túy thuốc lắc), 40 gam ma túy Ketamine và 50 viên ma túy không xác định được khối lượng, chủng loại.
- Tô Văn S đã nhiều lần bán cho nhiều người tổng cộng 19,777 gam ma túy MDMA (45 viên ma túy thuốc lắc); 50 viên ma túy thuốc lắc không xác định được khối lượng và loại; 39,302 gam ma túy Ketamine (40 gam - 0,698 gam), trong đó bán cho Sềnh Văn H1, Trần Thị X1, Lưu Đức H2 05 lần tổng cộng 08 viên ma túy thuốc lắc không xác định được loại, khối lượng và 02 gam ma túy Ketamine; tàng trữ để bán 4,395 gam MDMA (10 viên ma túy thuốc lắc), 0,698 gam ma túy Ketamine thì bị Cơ quan điều tra phát hiện thu giữ cùng vật chứng. Tổng cộng, S đã bán và tàng trữ để bán trái phép là 24,172 ma túy MDMA (55 viên ma túy thuốc lắc); 40 gam ma túy Ketamine và 50 viên ma túy thuốc lắc không xác định được loại, khối lượng.
- Hoàng Hùng L2 đã có hành vi giúp sức cho Tô Văn S nhiều lần bán cho nhiều người tổng cộng 19,777 gam ma túy MDMA (45 viên ma túy thuốc lắc); 02 viên ma túy thuốc lắc không xác định được loại, khối lượng; 02 gam ma túy Ketamine (trong đó: 03 lần bán cho Sềnh Văn H1, Trần Thị X1, Lưu Đức H2 tổng cộng 02 viên ma túy thuốc lắc không xác định được loại, khối lượng 02 gam ma túy Ketamine) và giúp sức cho S tàng trữ để bán 4,395 gam MDMA (10 viên ma túy thuốc lắc). Tổng cộng, L2 giúp sức cho S bán và tàng trữ để bán trái phép là 24,172 ma túy MDMA (55 viên ma túy thuốc lắc); 02 gam ma túy Ketamine và 02 viên ma túy thuốc lắc không xác định được loại.
Theo khoản 3 Điều 5 Chương II Nghị định 19/2016/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng chất ma túy các bị cáo mua bán so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự được tính như sau:
- Tổng khối lượng ma tuý mà bị cáo H bán: MDMA (24,172g : 30g) x 100 + Ketamine (49,72g : 100g) x 100 = 80,573% + 49,72% = 130,293%.
- Tổng khối lượng ma tuý mà bị cáo D và bị cáo S bán: MDMA (24,172g : 30g) x 100 + Ketamine (40g : 100g) x 100 = 80,573% + 40% = 120,57%.
- Tổng khối lượng ma tuý mà bị cáo L2 bán: MDMA (24,172g : 30g) x 100 + Ketamine (2g : 100g) x 100 = 80,57% + 2% = 82,57%.
Do tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy mà các bị cáo H, D và S bán so với mức tối thiểu quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là trên 100%, nên tiếp tục tính tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 4 Điều 251, 252 của Bộ luật Hình sự như sau:
- Tổng khối lượng ma tuý mà bị cáo H bán: MDMA (24,172g : 100g) x 100 + Ketamine (49,72g : 300g) x 100 = 24,17% + 16,57% = 40,74%.
- Tổng khối lượng ma tuý mà bị cáo D và bị cáo S bán: MDMA (24,172g : 100g) x 100 + Ketamine (40g : 300g) x 100 = 24,17% +13,33% = 37,5%.
Như vậy tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự của các bị cáo H, D và S là trên 100%; của bị cáo L2 là dưới 100% và tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự của các bị cáo H, D và S là dưới 100%. Do đó hành vi nêu trên của các bị cáo Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D và Tô Văn S phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy’’ quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; hành vi của bị cáo Hoàng H5 Lâm phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý về ma tuý của Nhà nước. Các bị cáo biết rõ việc tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng vẫn cố tình vi phạm nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội đã gây ra. Do đó cần tuyên cho các bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và đồng thời có tác dụng giáo dục răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về vai trò: bị cáo H và bị cáo D phạm tội độc lập với nhau và độc lập với các bị cáo khác. Bị cáo S đồng phạm với bị cáo L2, trong đó S giữ vai trò cao hơn L2.
[5] Về nhân thân: các bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo H, D và S phạm tội 02 lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; bị cáo S còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm 0 khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đó là: Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; bị cáo L2 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài tra bị cáo L2 có ông bà nội và bà ngoại, bị cáo S có ông bà nội và ông ngoại, là người có công với Nhà nước nên hai bị cáo này được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt: khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, nhưng dù có xem xét giảm nhẹ hình phạt đến đâu thì việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết.
Bị cáo L2 khi thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nên cần áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa đủ 18 tuổi phạm tội đối với bị cáo L2.
[7] Về hình phạt bổ sung: các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong 02 phong bì niêm phong số 454/KL-KTHS và số 478/KL-KTHS là vật nhà nước cấm và những vật chứng không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy, gồm: 01 (một) túi xách nilon màu đỏ, 01 (một) hộp giấy hình chữ nhật màu xanh, vỏ hộp có chữ JINGPNVXIE, 01 (một) vỏ hộp bánh Chocopie và 01 (một) túi giả da màu đen có quai xách thu giữ của bị cáo S; 01 (một) túi da màu đen, 01 (một) cân điện tử, 07 (bảy) vỏ túi nilon trong suốt, kích thước khoảng (11,5x7)cm và 50 (năm mươi) vỏ túi nilon trong suốt, kích thước khoảng (2,5x2,5)cm thu giữ của bị cáo H.
- Đối với 05 điện thoại di động các loại gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng - đen thu giữ của bị cáo S; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi xám thu giữ của bị cáo L2; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh đen thu giữ của bị cáo D; 02 (hai) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh đen thu giữ của bị cáo H, các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước. 05 sim điện thoại (của 05 chiếc điện thoại bị tịch thu sung ngân sách Nhà nước) không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với: 01 (một) Chứng minh nhân dân và 01 (một) thẻ ATM ngân hàng V1 mang tên Nguyễn Thị Thùy D; 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân và 01 (một) thẻ ATM ngân hàng M2 mang tên Dương Minh H, là giấy tờ cá nhân của các bị cáo, cần trả lại cho các bị cáo.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng đen, mặt sau bị vỡ + 01 (một) sim thu giữ của bị cáo D, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
- Đối với: số tiền 12.100.000 đồng thu giữ của bị cáo S và 2.500.000 đồng thu giữ của bị cáo H, trong đó xác định: số tiền 7.200 .000 đồng của S và số tiền 2.500.000 đồng của H là tiền do bán ma tuý mà có, nên cần tịch thu số tiền trên sung ngân sách Nhà nước; đối với số tiền còn lại là 4.900.000 đồng thu giữ của bị cáo S không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo S, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[9] Biện pháp tư pháp: bị cáo H bán ma tuý cho bị cáo D thu lợi 8.450.000 đồng; bị cáo D bán ma tuý cho bị cáo S thu 3.400.000 đồng; bị cáo S và bị cáo L2 bán ma tuý cho các đối tượng Sềnh Văn H1, Trần Thị X1, Lưu Đức H2 thu 7.900.000 đồng, sau đó S cho L2 450.000 đồng tiền công. Xét thấy đây là tiền do phạm tội mà có, cần truy thu sung ngân sách nhà nước, cụ thể, cần truy thu bị cáo H 8.450.000 đồng; truy thu bị cáo D 3.400.000 đồng; truy thu của bị cáo S 7.450.000 đồng; truy thu của S 450.000 đồng.
[10] Nội dung khác: đối với người phụ nữ tên là Y và 02 người đàn ông, theo H khai là những người đã bán ma túy cho H; người phụ nữ tên là H4, theo S khai là người đặt mua ma túy của S, không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không làm rõ được.
[11] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo về tội danh, diễu khoản truy tố, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đề nghị áp dụng là có căn cứ, phù hợp với nội dung của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên cơ bản được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Quan điểm của những người bào chữa cho các bị cáo cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[12] Về án phí và quyền kháng cáo: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, đại diện hợp pháp và người bào chữa của bị cáo L2 có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố: các bị cáo Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D, Tô Văn S và Hoàng Hùng L2 phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy".
- Căn cứ: điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Dương Minh H 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 15/4/2023.
- Căn cứ: điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy D 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 12/4/2023 8 - Căn cứ: điểm h khoản 3 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Tô Văn S 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 11/4/2023.
- Căn cứ: điểm b, p khoản 2 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91 và khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Hùng L2 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 11/4/2023.
- Về biện pháp tư pháp: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.
Buộc các bị cáo phải nộp lại số tiền do phạm tội mà có đê sung ngân sách nhà nước, cụ thể buộc: Dương Minh H phải nộp 8.450.000 đồng (tám triệu, bốn trăm năm mươi nghìn đồng), Nguyễn Thị Thùy D phải nộp 3.400.000 đồng (ba triệu, bốn trăm nghìn đồng), Tô Văn S phải nộp 7.450.000 đồng (bảy triệu, bốn trăm năm mươi nghìn đồng, Hoàng Hùng L2 phải nộp 450.000 đồng (bốn trăm năm mươi nghìn đồng).
- Về xử lý vật chứng: áp dụng: điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong 02 phong bì niêm phong so 454/KL-KTHS và số 478/KL-KTHS; 01 (một) túi xách nilon màu đỏ, 01 (một) hộp giấy hình chữ nhật màu xanh, vỏ hộp có chữ JINGPNVXIE, 01 (một) vỏ hộp bánh Chocopie và 01 (một) túi giả da màu đen có quai xách thu giữ của bị cáo S; 01 (một) túi da màu đen, 01 (một) cân điện tử, 07 (bảy) vỏ túi nilon trong suốt, kích thước khoảng (11,5x7)cm và 50 (năm mươi) vỏ túi nilon trong suốt, kích thước khoảng (2,5x2,5)cm thu giữ của bị cáo H; 05 sim điện thoại (của 05 chiếc điện thoại bị tịch thu sung ngân sách Nhà nước).
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 9.700.000 đồng (chín triệu bảy trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo S và bị cáo H; 05 điện thoại di động các loại gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng - đen thu giữ của bị cáo S; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi xám thu giữ của bị cáo L2; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh đen thu giữ của bị cáo D; 02 (hai) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh đen thu giữ của bị cáo H.
- Trả lại cho bị cáo D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng đen, mặt sau bị vỡ + 01 (một) sim, 01 (một) Chứng minh nhân dân và 01 (một) thẻ ATM ngân hàng V1 mang tên Nguyễn Thị Thùy D; trả lại cho bị cáo H01 (một) Giấy chứng minh nhân dân và 01 (một) thẻ ATM ngân hàng M2 mang tên Dương Minh H; trả lại cho bị cáo S số tiền 4.900.000 đồng (bốn triệu chín trăm nghìn đồng), nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
(Tình trạng như Biên bản giao vật chứng số 122 ngày 28/8/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh và Cục thi hành án dân sự tỉnh Q.
Tình trạng số tiền trên được gửi tại Ngân hàng TMCP Đ- Phòng G Chi nhánh H6 theo Giấy nộp tiền mặt số 0043 ngày 09/6/2023 vào tài khoản số 39490903986200000 của Công an tỉnh Q mở tại Kho bạc Nhà nước Q).
- Về án phí: áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Dương Minh H, Nguyễn Thị Thùy D, Tô Văn S và Hoàng Hùng L2, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Các bị cáo, đại diện hợp pháp và người bào chữa của bị cáo L2 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 128/2023/HS-ST
Số hiệu: | 128/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về