Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 128/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 128/2023/HS-PT NGÀY 20/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 716/2022/TLPT-HS ngày 07 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Lê Thị Ngọc Ch và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 396/2022/HS-ST ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Thị Ngọc Ch, sinh năm 1969 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: Số 148/12/50/23 TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 20/3/2020 đang làm thủ tục nhập hộ khẩu về địa chỉ này thì bị bắt); nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Ngọc Kh và bà Nguyễn Thị C; có chồng và 06 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 27/11/2013, bị Công an Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; bị tạm giam từ ngày 13/4/2020, (có mặt).

+ Người bào chữa cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch: Ông Trần Ngọc H và ông Nguyễn Quang V – Luật sư làm việc tại Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn ĐV, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

2. Lê Thị Th, sinh năm 1959 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Số 148/12/30/31/20 TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: Số 148/12/30/31/15A TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh và số 148/12/30/19/12 TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 3/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công M và bà Nguyễn Thị H1; có chồng và 07 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 13/4/2020, (có mặt).

+ Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Lê Thị Th: Bà Trần Thị Th H2 – Luật sư làm việc tại Văn phòng Luật sư TT, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

3. Huỳnh Thị Châu H3, sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Số 214/41 BĐT, Phường 12, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: nhà không số cạnh nhà số 55/20/11/16, đường số 48, Tổ 40, Khu phố 6, phường HBC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh và phòng số 7, tầng 4, nhà số 238 LVS, Phường 1, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn Tr và bà Trần Thị H4; có chồng và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 13/4/2020, (có mặt).

+ Người bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo Huỳnh Thị Châu H3: Ông Ngô Hoàng Ch1 và ông Nguyễn Hoàng A – Luật sư làm việc tại Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn HC, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 00 phút ngày 13/4/2020, tại trước nhà số 571 đường CB, phường COL, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Phòng 7 Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Bộ Công an, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận BT, Công an quận TP, Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh và Công an phường COL, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, bắt quả tang Huỳnh Thị Châu H3 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để bán cho người khác. Thu giữ trong cốp xe gắn máy biển số 59S3- 226.18 do H3 đang điều khiển có một hộp giấy, bên trong có 03 gói nylon chứa 2.882 viên nén hình bánh răng màu xanh, có in logo hình vương miện, kết quả giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1.002,86 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 998,21 gam, loại Ketamine (BL số 143-145).

Đến 17 giờ 00 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Huỳnh Thị Châu H3 tại nhà không số (cạnh nhà số 55/20/11/16), hẻm 55, Đường 48, Khu phố 6, phường HBC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, thu giữ 01 chiếc két sắt đặt trong tủ sắt tại phòng ngủ bên phải ở lầu 1, bên trong có: 06 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 856,47 gam, loại Methamphetamine; 02 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 182,35 gam, loại Ketamine; 02 gói nylon chứa 106 viên nén, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 37,0904 gam, loại MDMA; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 cân điện tử và 20 bịch nylon không chứa gì.

Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, tiếp tục khám xét khẩn cấp chỗ ở của Huỳnh Thị Châu H3 tại phòng số 7, tầng 4, nhà số 238 LVS, Phường 1, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh, không phát hiện và thu giữ đồ vật gì liên quan đến vụ án (BL 150-152; 156-158).

Hạnh khai nhận số ma túy bị bắt quả tang mua của Lê Thị Ngọc Ch và Lê Thị Th, mở rộng điều tra, lúc 12 giờ 20 phút ngày 13/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ch tại nhà số 148/12/50/23 đường TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, thu giữ: tại góc bên trái cửa ra vào có 01 màn hình ti vi hiệu SamSung; 01 đầu thu màu đen, bên ngoài ghi chữ “tp-link”; 01 đầu dẫn màu đen, bên ngoài ghi chữ “HIKVISION”; trên bàn gỗ để ở giữa phòng khách tầng trệt thu 07 điện thoại di động các loại; 03 xe mô tô lần lượt mang biển số 59A3- 133.33, 59C1-201.15 và 59Y1-349.49; 1.450.000.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong cốp đựng đồ xe mô tô biển số 59A3-133.33 (BL 359-360).

Đến 13 giờ 40 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Thị Th tại nhà số 148/12/30/31/15A đường TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, lúc này trong nhà có mặt Lê Văn Ph là chồng của Th; Lê Thanh Ph1; Lê Thị Ngọc Ph2 là con của Th; Ngô Quốc L là con rể của Th cùng cư trú tại địa chỉ này. Quá trình khám xét phát hiện, thu giữ:

- Trong phòng ngủ bên tay phải tại lầu 1: có 59 gói nylon chứa tổng cộng 58.895 viên nén nhiều màu, kết quả giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 23.433,61 gam, loại MDMA;

- Trong túi quần màu đỏ sẫm treo tại phòng ngủ bên tay trái tại lầu 1: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 10,0007 gam, loại Methamphetamine; 01 cân tiểu ly;

- Tại tay vịn bên phải của cầu thang lên lầu 1 thu giữ 01 túi xách màu đen bên trong có: 06 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5.995,6600 gam, loại Ketamine; 02 điện thoại di động (BL 262-263).

Đến 16 giờ 40 phút cùng ngày, tiếp tục khám xét khẩn cấp chỗ ở của Th tại nhà số 148/12/30/19/12 đường TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, lúc này trong nhà có mặt của Võ Ngọc T. Quá trình khám xét phát hiện, thu giữ trong phòng ngủ, phía sau phòng khách có 01 túi vải dạng túi du lịch bên trong có: 01 túi vải in chữ K, P bên trong chứa: 18 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1.496,3174 gam, loại Ketamine; 01 túi vải màu sám đen bên ngoài in chữ CAPAZZI bên trong chứa: 02 túi vải, chứa tổng cộng 31 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 526,9300 gam, loại Methamphetamine; 01 túi vải màu xám đen bên ngoài kẻ ô hình thoi, bên trong chứa: 25 gói nylon chứa tổng cộng 4.059 viên nén và mảnh vụn nhiều màu, kết quả giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1.528,0944 gam, loại MDMA; 03 gói nylon chứa chất bột màu xanh, hồng, kết quả giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 7,1610 gam, loại hỗn hợp Methamphetamine và MDMA; 01 cân điện tử.

Ngoài ra, còn thu giữ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Airbale, biển số 59B1- 145.75, trong hộc đựng đồ dưới yên xe phát hiện 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6478 gam, loại Ketamine (BL 267-269).

Lê Thị Th khai nhận số ma túy khám xét thu giữ là của Lê Thị Ngọc Ch đưa cho Th cất giữ để bán theo chỉ đạo của Ch, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được, nên ngày 13/4/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và ngày 14/4/2020 thi hành Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Thị Th và Lê Thị Ngọc Ch về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” (BL 273-277, 364-368).

Tất cả số vật chứng là ma túy đã được giám định, kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 633, 634, 635/KLGĐ-H ngày 22/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09), Công an thành phố Hồ Chí Minh (BL 47-50; 34-35; 30).

Quá trình điều tra xác định được hành vi phạm tội của các bị can, hồ sơ thể hiện như sau:

Huỳnh Thị Châu H3 là người sử dụng ma túy tổng hợp “đá”, thông qua một người bạn đã chết có tên thường gọi là Đ (không rõ lai lịch) giới thiệu, nên H3 biết Tuấn A1 (không rõ lai lịch) là người bán ma túy. Khoảng tháng 12/2019, H3 liên lạc với Tuấn A1 hỏi mua ma túy để bán lại kiếm lời, Tuấn A1 đồng ý và thỏa thuận, khi H3 cần mua ma túy thì trực tiếp liên lạc với Tuấn A1 qua ứng dụng Zalo để thỏa thuận giá mua và số lượng ma túy cần mua. Sau khi thỏa thuận xong, thì ngày hôm sau sẽ có người tên Cô H5 liên lạc với H3, hẹn địa điểm giao ma túy và nhận tiền cho Tuấn A1. Khi bị bắt, H3 biết Cô H5 tên Lê Thị Th cùng bị bắt trong vụ án. Ngoài ra, có một số lần Tuấn A1 cho H3 nợ tiền mua ma túy, khi bán hết ma túy H3 gọi điện cho Tuấn A1 để trả tiền thì có một người tên Q (không rõ lai lịch sống ở khu vực Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh) liên lạc với H3 để lấy tiền. Lúc đầu mỗi lần H3 mua 100 gam ma túy “đá”, giá 30.000.000 đồng, mang về chỗ ở phân ra thành nhiều gói nhỏ bán cho người nghiện ở khu vực quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh, giá mỗi gói từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, thu lợi bất chính khoảng 5.000.000 đồng và ma túy để sử dụng.

Đến khoảng tháng 02/2020, Nguyễn Văn Ph3 là người chung sống như vợ chồng với H3 tại nhà không số, hẻm 55, Đường số 48, phường HBC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh nói H3 liên hệ với Tuấn A1 mua ma túy cho Ph3 bán, H3 đã nhiều lần mua ma túy của Tuấn A1 đưa cho Ph3 bán lẻ. Mỗi lần H3 mua từ 1.000 đến 3.000 viên ma túy tổng hợp “thuốc lắc”, giá 95.000.000 đồng/1.000 viên và 01 kg Ketamine, giá 500.000.000 đồng hoặc 0,5 kg ma túy “đá”, giá 130.000.000 đồng. Tối ngày 12/4/2020, H3 liên lạc với Tuấn A1 đặt mua 3.000 viên thuốc lắc và 01 kg Ketamine, thỏa thuận khi nào bán hết ma túy sẽ trả tiền sau, Tuấn A1 đồng ý và nói ngày hôm sau, Cô H5 (Th) sẽ liên lạc với H3 để giao ma túy. Khoảng 07 giờ 21 phút ngày 13/4/2020, Th gọi điện thoại báo cho H3 biết là đã có ma túy và hẹn địa điểm giao ma túy tại khu vực chân COL, thuộc Quận 4, kế bên Siêu thị điện máy. Đến 10 giờ 43 phút cùng ngày, H3 sử dụng điện thoại có 02 sim số 0936919175 và 0908799904 gọi vào số 0796570907 của Th báo đã đến điểm hẹn, sau đó Th mang ma túy đến giao cho H3. Nhận được ma túy, H3 cất giấu vào trong cốp xe gắn máy biển số 59S3- 226.18 rồi điều khiển xe về chỗ ở để phân chia, khi đến trước nhà số 571 đường CB, phường COL, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Tổ công tác kiểm tra, phát hiện bắt quả tang như nêu trên. Đối với số ma túy thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở, H3 khai trước đó H3 đã mua của Tuấn A1 do Th đưa mang về cho Ph3 cất giấu để bán nhưng chưa kịp bán hết thì bị thu giữ.

Lê Thị Th là người giúp việc nhà cho Lê Thị Ngọc Ch từ năm 2001, Ch thường xuyên cho Th ở lại nhà số 148/12/30/19/12 TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh cho đến ngày bị bắt. Khoảng tháng 02/2020, Ch yêu cầu Th giúp Ch đi nhận ma túy mang về chỗ ở của Th cất giấu (nhà số 148/12/30/31/15A TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh) và giao ma túy khi có người mua liên lạc theo hướng dẫn của Ch. Người giao ma túy cho Th là một người đàn ông làm dịch vụ xe Grab. Thời gian đầu, địa điểm Th nhận ma túy là khu vực cạnh Bệnh viện đa khoa Quận 4 và trước trường Trung học cơ sở VĐ, Phường 8, Quận 4. Th đã đi nhận ma túy được 03-04 lần. Sau này, có những người đàn ông không rõ lai lịch làm dịch vụ xe Grab, chở ma túy đến chỗ ở của Th giao. Sau khi nhận ma túy, Ch và Th cùng nhau mở thùng ra kiểm tra số lượng ma túy, kiểm tra xong Ch giao cho Th có trách nhiệm cất giấu số ma túy này tại chỗ ở của Th, để khi có người mua thì Ch gọi điện thoại nói Th lấy ma túy đi giao theo sự hướng dẫn của Ch. Địa điểm giao tại các khu vực như chân COL; đường VK, đường NHH; bên hông siêu thị điện máy thuộc Quận 4. Th đã nhiều lần giao ma túy cho một thanh niên (không rõ lai lịch) tại khu vực đường VK và đường 20, Quận 4; giao ma túy cho Huỳnh Thị Châu H3 04-05 lần tại khu vực đường NHH và bên cạnh siêu thị điện máy thuộc Quận 4. Khi giao ma túy thì Th không biết khối lượng do Ch đã chuẩn bị sẵn và gói ma túy trong các bịch nylon bên ngoài được quấn băng keo kín. Ch trả công cho Th từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng/tháng.

Đối với số ma túy thu giữ khi khám xét tại nhà số 148/12/30/31/15A TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh: khoảng 06 giờ 00 phút ngày 13/4/2020, Ch sử dụng điện thoại Nokia có gắn sim số 0706968254, gọi cho Th qua số 0796570907 nói có người chở ma túy đến giao tại chỗ ở của Th, khi nào nhận được ma túy thì báo cho Ch biết để Ch qua kiểm đếm. Đến 06 giờ 23 phút cùng ngày, Th nhận được 01 thùng carton, Th biết là ma túy Ch nói nên gọi điện báo cho Ch biết, Ch qua chỗ ở của Th cùng Th mở thùng carton ra kiểm tra số ma túy, sau khi kiểm tra đủ số lượng, Ch yêu cầu Th lấy từng gói ma túy đem cất giấu nhiều nơi trong nhà. Sau đó, Th đi chợ, đến 07 giờ 20 phút Ch gọi nói Th lấy gói ma túy Ch gói sẵn để ở chỗ nằm ngủ của Th tại nhà số 148/12/30/19/12 giao cho H3, Th gọi cho H3 hẹn địa điểm giao phù hợp với lời khai của H3, giao ma túy cho H3 xong Th đi về chỗ ở thì bị khám xét, bắt giữ như nêu trên.

Đối với số ma túy thu giữ khi khám xét tại nhà số 148/12/30/19/12 TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh là Ch đưa cho Th cất giấu vào ngày 08/4/2020 để có người mua thì Th đi giao.

Lê Thị Ngọc Ch khai nhận từ năm 2018 thường sang Campuchia để mua quần áo cũ mang về Việt Nam bán lại, trong thời gian này Ch quen biết một người đàn ông tên C1 (không rõ lai lịch) sống ở Campuchia. Khoảng đầu tháng 4/2020, C1 đề nghị Ch cho C1 gửi ma túy tại chỗ ở của Ch, khi có khách mua thì Ch giao cho khách giúp C1, khách trả tiền thì Ch nhận rồi người của C1 sẽ đến lấy sau, C1 hứa ngày 15/4/2020 sẽ về Việt Nam trả công cho Ch nhưng không nói trả bao nhiêu tiền. Ch về Việt Nam tìm gặp một người tên T1 (không rõ lai lịch) thuê đi nhận hàng cho Ch khi có người gọi thì người này đồng ý. Ch đã giúp C1 nhận ma túy 03 lần, cụ thể: Lần 1: vào khoảng đầu tháng 4/2020, C1 nói với Ch ma túy sẽ về Việt Nam và yêu cầu Ch cử người đi nhận. Người của C1 đến chỗ ở của Ch thì Ch cho số điện thoại của T1 để hẹn địa điểm nhận ma túy. Lần này, T1 nhận cho Ch 05 gói ma túy và 01 túi xách bằng vải bên trong có nhiều gói nhỏ chứa ma túy dạng viên nén, Ch trả công cho T1 400.000 đồng. Sau đó, C1 gọi nói Ch giao cho khách của C1 02 gói ma túy, Ch nói Th đi giao. Còn lại 03 gói Ch cất giấu tại chỗ ở của Th tại nhà số 148/12/30/31/15A đường TĐ, Phường 8, Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh; túi vải chứa ma túy dạng viên nén Ch cất giấu tại nhà của Ch ở số 148/12/30/19/12 đường TĐ, Phường 8, Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh, sau đó bị khám xét thu giữ. Lần 2: khoảng ngày 05/4/2020, C1 gọi nói sẽ chuyển 04 kg ma túy tổng hợp “đá” về Việt Nam và yêu cầu Ch cung cấp số điện thoại người nhận, Ch chuyển cho C1 số của Th, C1 gọi Th đi nhận ma túy, xong ngay trong ngày C1 gọi Ch nói giao lại cho khách của C1, Ch nói Th đi giao. Lần 3: vào ngày 12/4/2020, C1 cho người đến nhà Ch lấy số điện thoại người nhận ma túy, Ch đưa số của T1 cho người này. Đến khoảng hơn 06 giờ ngày 13/4/2020, T1 nhận 01 thùng carton chứa ma túy mang về chỗ ở của Th cho Ch, Th nhận ma túy xong báo Ch biết rồi cả hai cùng kiểm đếm như lời khai của Th. Xong, Ch nói Th cất giấu tại chỗ ở của Th là nhà số 148/12/30/31/15A thì bị khám xét, thu giữ.

Lê Văn Ph là chồng của Th, tuy không đăng ký kết hôn nhưng bắt đầu chung sống từ năm 1980 và đã có 07 người con chung. Đến năm 2019, Ph chuyển từ Long An đến chung sống tại nhà số 148/12/30/31/15A đường TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh do con gái của Ph và Th tên Lê Thị Ngọc Ph4 đứng tên chủ sở hữu. Ph đã 02 lần nhìn thấy người đàn ông mặc đồng phục Grab chở thùng carton đến để trước cửa nhà rồi bỏ đi (vào đầu tháng 4/2020 và 06 giờ 00 phút ngày 13/4/2020). Sau đó, Ch và Th đưa vào nhà bếp cùng mở thùng ra kiểm tra, Ph ngồi ở phòng khách xem tivi nên không nhìn rõ trong thùng chứa gì cũng như không nghe rõ Ch và Th nói chuyện gì. Tuy nhiên, Ph có thấy một số gói nylon chứa viên nén màu xanh để trong ngăn kéo phía dưới của tủ đựng quần áo trong phòng ngủ bên phải của Ph, do xem trên tivi nên Ph biết những viên nén này là ma túy. Ph có can ngăn nhưng Th nói không phụ giúp Ch mua bán ma túy thì không có tiền để cả hai chữa bệnh. Do già yếu, sống phụ thuộc nên Ph không nhắc lại chuyện này nữa cho đến khi Th và Ch bị bắt.

Đối với Nguyễn Văn Ph3 là người chung sống như vợ chồng với Huỳnh Thị Châu H3. Khi biết H3 bị bắt, Ph3 bỏ trốn khỏi địa phương đi đâu không rõ, đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh chưa xác định được chỗ ở của Ph3 để triệu tập làm việc và hiện vẫn đang tiếp tục truy xét, thu thập chứng cứ và tài liệu, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Lê Thị Ngọc Ph2, Lê Thanh Ph1, Ngô Quốc L và Võ Ngọc T, qua điều tra không liên quan đến hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của Lê Thị Th và Lê Thị Ngọc Ch, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với các đối tượng tên C1, T1 và Tuấn A1 do Ch và H3 khai không rõ về nhân thân, lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ để xử lý.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã lập biên bản chuyển toàn bộ số vật chứng trên đến kho vật chứng thuộc Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; tiền đã nộp vào tài khoản của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh tại kho bạc Nhà nước Quận 10 để chờ xử lý theo quy định.

Vật chứng vụ án đã được liệt kê theo Phiếu nhập kho vật chứng số: NK2021/130 ngày 13/01/2021 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại bản Cáo trạng số 272/CTr-VKS-P1 ngày 20/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị can Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th, Huỳnh Thị Châu H3 (có lý lịch nêu trên) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 396/2022/HS-ST ngày 29/8/2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự (đối với bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th);

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s, điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự (đối với bị cáo Huỳnh Thị Châu H3);

1. Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

+ Xử phạt bị cáo Lê Thị Ngọc Ch tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/4/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Ch 100.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

+ Xử phạt bị cáo Lê Thị Th tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/4/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Th 20.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

+ Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/4/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo H3 20.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Đối với người bị kết án tử hình thì: “Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 30/8/2022, các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 có đơn kháng cáo với cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Bị cáo Lê Thị Ngọc Ch xác định yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt tử hình.

+ Bị cáo Lê Thị Th xác định yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt tử hình và hình phạt bổ sung.

+ Bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 xác định yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt tử hình với lý do: Hiện nay, bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình, phải nuôi 02 con (con lớn sinh năm 2007 và con nhỏ sinh năm 2015) vì chồng của bị cáo là Trương Thành L1 đã chết từ năm 2016, nên mẹ của bị cáo đang phải nuôi các con của bị cáo, nhưng cha của bị cáo là Huỳnh Văn Tr cũng mới chết ngày 21/9/2021. Mặt khác, mặc dù hiện nay bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, nhưng vẫn tác động gia đình tự nguyện thi hành phần hình phạt bổ sung 20.000.000 đồng của bản án sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo. Luật sư bào chữa cho bị cáo H3 có nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm các tài liệu gồm: Trích lục khai tử (bản sao) số: 107/TLKT-BS ngày 05/9/2016 của UBND Phường 11, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện ông Trương Thành L1 đã chết ngày 04/9/2016; Trích lục khai tử (bản sao) số: 554/TLKT-BS ngày 19/10/2021 của UBND Phường 12, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện ông Huỳnh Văn Tr đã chết ngày 21/9/2021; Biên lai thu tiền số AA/2021/0004323 ngày 16/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện bà Huỳnh Thị Bích Tr1 là người nhà của bị cáo đã nộp 20.000.000 đồng thi hành phần hình phạt bổ sung 20.000.000 đồng của bản án sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo H3.

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và phần xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, có đủ căn cứ xác định, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội theo quy định pháp luật, không oan cho các bị cáo.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo; mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với các bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, đủ đảm bảo răn đe, phòng chống tội phạm nói chung, đặc biệt đối với tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay. Các bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết nào mới đủ cơ sở để chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định về hình sự của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

+ Các Luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch:

Luật sư Nguyễn Quang V trình bày bào chữa cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ về cho cấp sơ thẩm điều tra lại vụ án với các lý do như sau:

Lời khai của bị cáo Lê Thị Th về số ma túy thu giữ tại nhà số 148/12/30/19/12 đường TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là nhà số 12) có nhiều mâu thuẫn, chưa làm rõ được ai là người đã mang ma túy đến nhà này. Vì tại Biên bản đối chất ngày 14/4/2020 giữa bị cáo Lê Thị Th và bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, bị cáo Th khai ma túy là của bà Ch đem đến cất giấu từ ngày 03/4/2020; tuy nhiên, tại Biên bản ghi lời khai ngày 14/4/2020 thì bị cáo Th lại khai ma túy do một người thanh niên khoảng 35 tuổi mặc đồ xe ôm công nghệ giao cho bị cáo Th 01 thùng giấy, bên trong chứa 04 gói dạng hình vuông chứa ma túy, rồi bị cáo Th mang 04 gói ma túy này giao cho bị cáo Ch tại nhà số 12.

Mặt khác, theo Cáo trạng của Viện kiểm sát thì vật chứng thu giữ được tại nhà số 12 có 03 túi vải và 03 gói nylon. Vậy những túi vải chứa ma túy thu giữ được tại nhà số 12 có phải là ma túy của bị cáo Ch hay không cũng chưa được làm rõ.

Về số ma túy thu giữ tại nhà số 148/12/30/31/15A đường TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là nhà số 15A) có nhiều điểm bất hợp lý như: Bị cáo Lê Thị Ngọc Ch biết rõ bị cáo Lê Thị Th đang sinh sống tại nhà số 12 (nhà của bị cáo Ch), nhưng bị cáo Ch lại kêu người thanh niên chạy xe Grab mang ma túy đến số nhà 15A (nhà của con bị cáo Th) không trực tiếp giao ma túy cho ai mà lại để ma túy ở bên hông nhà này. Bị cáo Th khai, lúc đó là 06 giờ sáng bị cáo đang ngủ thì bị cáo Th không thể biết có 01 thanh niên đi xe Grab mang ma túy đến.

Trong Biên bản đối chất ngày ngày 14/4/2020 giữa bị cáo Lê Thị Th và bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 thể hiện có những vi phạm tố tụng như sau: Tại trang 2, Cơ quan điều tra có đặt câu hỏi “chị H (tức là bà Th)”, nhưng phần trả lời có ghi thêm dòng chữ “chị H3 trả lời” nhưng không có chữ ký xác nhận là vi phạm nghiêm trọng tố tụng, làm thay đổi nội dung của vụ án.

Luật sư Trần Ngọc H trình bày bào chữa cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch đồng ý với quan điểm của Luật sư Nguyễn Quang V, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ về cho cấp sơ thẩm điều tra lại vụ án với các lý do nêu trên. Thêm nữa, Luật sư Trần Ngọc H không đồng ý về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Ch. Vì bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 khai mua ma túy của người tên là Tuấn A1, như vậy người mua ma túy trong vụ án này không mua ma túy của bị cáo Ch. Mặt khác, bị cáo H3 khai mua ma túy về giao cho Nguyễn Văn Ph3 bán chưa được điều tra làm rõ. Lê Văn Ph khai do xem ti vi nên Ph biết những viên nén là ma túy, lời khai này là không có cơ sở, gây bất lợi cho bị cáo Ch. Như vậy, cũng cần phải hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ về cho cấp sơ thẩm điều tra lại đối với các đối tượng tên C1, Tuấn A1 và Nguyễn Văn Ph3 thì mới đảm bảo cho việc giải quyết, xét xử đối với các bị cáo trong vụ án đúng quy định pháp luật.

+ Luật sư Trần Thị Th H2 trình bày bào chữa cho bị cáo Lê Thị Th với nội dung:

Do bị cáo Th chỉ là người giúp việc nhà cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch nên bị cáo Th là nạn nhân của vụ án, làm theo sự chỉ đạo của bị cáo Ch thực hiện việc giao nhận hàng mà không biết bên trong có chứa ma túy. Sau khi bị bắt, bị cáo Th đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối hận; đến nay bị cáo Th đã cao tuổi, sức khỏe yếu, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Th, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt tử hình và hình phạt bổ sung cho bị cáo.

+ Các Luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thị Châu H3:

Luật sư Ngô Hoàng Ch1 cho rằng, trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt tử hình đối với bị cáo H3 là quá nặng. Vì trong vụ án này bị cáo H3 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hơn nữa, trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo H3 có tình tiết bị cáo đã khai báo ra người thực hiện hành vi phạm tội. Thêm nữa, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo H3 đã tác động đến gia đình tự nguyện nộp phạt 20.000.000 đồng thi hành xong phần hình phạt bổ sung của bản án sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo, xem đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm cho bị cáo. Mặt khác, bị cáo H3 có hoàn cảnh hết sức khó khăn, 02 con của bị cáo còn nhỏ, trong khi đó chồng của bị cáo đã chết từ năm 2016, nên mẹ của bị cáo đang phải nuôi các con của bị cáo, nhưng cha của bị cáo cũng mới chết do Covid; đây được xem là những tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm cho bị cáo.

Do bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự như trên nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo H3, cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, sửa bản án sơ thẩm theo hướng xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 tù chung thân để bị cáo có cơ hội được sống, các con của bị cáo không trở thành các trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ.

+ Luật sư Nguyễn Hoàng A đồng ý với ý kiến quan điểm của Luật sư Ngô Hoàng Ch1 bào chữa của cho bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 nêu trên, không có ý kiến trình bày thêm.

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu đối đáp:

Các Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ về cho cấp sơ thẩm điều tra lại vụ án, nhưng các lý do mà các Luật sư đưa ra là không có cơ sở để chấp nhận. Đối với các đối tượng tên C1, Tuấn A1 do các bị cáo khai nhưng không rõ nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ để xử lý; còn đối tượng Nguyễn Văn Ph3 thì bỏ trốn, Cơ quan điều tra đang tiếp tục truy xét và thu thập chứng cứ, khi nào có đủ chứng cứ sẽ xử lý sau theo quy định pháp luật.

Các Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Thị Th và bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo này, nhưng những tình tiết, tài liệu và lý do các luật sư đưa ra cũng không đủ cơ sở để chấp nhận.

Vì vậy, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm giữ nguyên quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định về hình sự của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đơn kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Xét kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo đã được Luật sư bào chữa theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, do có những vi phạm tố tụng trong quá trình điều tra vụ án, là không có cơ sở.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh của các bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị Th khai không biết là ma túy khi giao cho bị cáo H3 và khi khám xét thu giữ, bị cáo Ch khai Th không biết ma túy thu giữ, là không có cơ sở.

Vì xét những lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, biên bản khám xét, kết luận giám định, biên bản nhận dạng, bản tự khai của bị cáo và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở xác định:

Do cần tiền tiêu xài nên bị cáo Lê Thị Ngọc Ch giúp đối tượng tên C1 (không rõ lai lịch) nhận ma túy chuyển từ Campuchia về Việt Nam để bán, bị cáo Ch đã thuê bị cáo Lê Thị Th giúp bị cáo Ch nhận ma túy của C1, kiểm tra ma túy và cất giấu tại chỗ ở của bị cáo Th và nhà của bị cáo Ch. Bị cáo Th giúp sức cho bị cáo Ch nhận ma túy từ C1, giao ma túy cho người mua của C1 và cất giấu ma túy tại chỗ ở của mình. Bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 mua ma túy của Tuấn A1 (không rõ lai lịch) thông qua bị cáo Ch và bị cáo Th, để bán lại cho người nghiện để thu lợi và ma túy để sử dụng. Vào lúc 11 giờ 00 phút ngày 13/4/2020, tại trước nhà số 571 đường CB, phường COL, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 bị bắt quả tang đang cất giấu trong cốp xe gắn máy biển số 59S3-226.18 do bị cáo H3 đang điều khiển, thu giữ vật chứng qua giám định: ma túy ở thể rắn khối lượng 1.002,86 gam loại MDMA;

998,21 gam loại Ketamine để bán; khám xét chỗ ở của bị cáo H3 tại nhà không số (cạnh nhà số 55/20/11/16), hẻm 55, Đường 48, Khu phố 6, phường HBC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ vật chứng qua giám định: ma túy ở thể rắn khối lượng 856,47 gam loại Methamphetamine; 182,35 gam loại Ketamine; 37,0904 gam loại MDMA cũng cất giấu để bán. Qua lời khai của bị cáo H3, cùng ngày, bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, bị cáo Lê Thị Th bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp do có hành vi cất giấu ma túy để bán. Khám xét chỗ ở của bị cáo Ch, bị cáo Th tại 148/12/30/31/15A TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh và tại nhà số 148/12/30/19/12 TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (nhà của bị cáo Ch cho bị cáo Th ở), thu giữ vật chứng tổng cộng qua giám định: ma túy ở thể rắn khối lượng 24.961,7044 gam loại MDMA; 7.492,6252 gam loại Ketamine; 543,0615 gam loại Methamphetamine; 7,1610 gam, loại hỗn hợp loại Methamphetamine và MDMA. Đồng thời, trước đó bị cáo Ch và bị cáo Th đã giúp C1 bán cho bị cáo H3 tổng cộng ma túy ở thể rắn khối lượng 1.039,9504 gam loại MDMA; 1.180,56 gam loại Ketamine; 856,47 gam loại Methamphetamine.

[2.2] Từ những nội dung nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết luận:

Trong vụ án này, bị cáo Lê Thị Th được xác định là người thực hành, giúp sức cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch bán ma túy, nên bị cáo Th và bị cáo Ch phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy ở thể rắn đã bán cho Huỳnh Thị Châu H3 và khám xét thu giữ qua giám định là 26.001,6548 gam loại MDMA; 8.673,1852 gam loại Ketamine; 1.383,4000 gam loại Methamphetamine; 7,1610 gam loại hỗn hợp Methamphetamine và MDMA.

- Bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 mua ma túy từ bị cáo Ch và Th để bán lại cho người nghiện, nên bị cáo H3 phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy ở thể rắn bị bắt quả tang và khám xét qua giám định là 1.039,9504 gam loại MDMA; 1.180,5600 gam loại Ketamine; 856,4700 gam loại Methamphetamine.

[2.3] Với khối lượng các chất ma túy ở thể rắn dùng để mua bán và hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); là có đủ căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về hình phạt đối với các bị cáo.

[3.1] Trong vụ án này, mặc dù các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 đều thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, bị cáo H3 còn khai báo ra người thực hiện hành vi phạm tội, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, điểm t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.2] Tuy nhiên, xét hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác; gây mất trật tự trị an xã hội. Với động cơ tư lợi bất chính, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động, các bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật tham gia mua bán trái phép chất ma túy để tiêu thụ, phát tán ra xã hội các chất ma túy tổng hợp ở thể rắn các loại với khối lượng đặc biệt lớn (gấp nhiều lần so với mức khởi điểm là 100 gam trở lên và ma túy khác ở thể rắn là 300 gam trở lên quy định tại điểm b, điểm e của khoản điều luật).

[3.3] Thêm nữa, trong vụ án này, các bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán ma túy nhiều lần, thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.4] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 cùng với mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt bị áp dụng, loại bỏ các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là tương xứng với tính chất và mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện trong vụ án, là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, đủ đảm bảo tác dụng đấu tranh và phòng chống tội phạm nói chung, đặc biệt đối với tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị Th còn có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt bổ sung, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ điểm vào khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạt bổ sung bị cáo Th 20.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước, là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Kháng cáo của bị cáo Lê Thị Th xin giảm nhẹ hình phạt bổ sung là không có cơ sở.

[5] Đối với quan điểm của các Luật sư bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo H3; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;

Số tiền 20.000.000 đồng do bà Huỳnh Thị Bích Tr1 là người nhà của bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 đã nộp theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0004323 ngày 16/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh là tiền người nhà của bị cáo tự nguyện nộp thi hành phần hình phạt bổ sung của bản án sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo H3, đây không phải là tiền khắc phục hậu quả nên không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự như quan điểm đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo H3. Số tiền 20.000.000 đồng này sẽ được cấn trừ trong việc thi hành án đối với bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 trong vụ án này theo quy định pháp luật.

[5] Như vậy, đã có đủ tài liệu, chứng cứ xác định, những ý kiến trình bày và quan điểm của các Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Thị Ngọc Ch đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án về cho cấp sơ thẩm điều tra lại để làm rõ những mâu thuẫn, bất hợp lý trong lời khai của các bị cáo và những đối tượng mà các bị cáo đã khai không rõ nhân thân, lai lịch và đối tượng đã bỏ trốn, là không có cơ sở. Toàn bộ các tình tiết, tài liệu và lý do của các bị cáo Lê Thị Th, Huỳnh Thị Châu H3 đưa ra cùng các ý kiến, quan điểm của các Luật sư bào chữa cho các bị cáo là không đủ cơ sở, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.

[6] Từ những chứng cứ và nhận định nêu trên xét thấy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý kiến, quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 396/2022/HS- ST ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

1.1. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 và Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lê Thị Ngọc Ch tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/4/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

1.2. Căn cứ điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 và Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

+ Xử phạt bị cáo Lê Thị Th tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/4/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

+ Phạt bổ sung bị cáo Th 20.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

1.3. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Châu H3 tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/4/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Trong thời hạn 07 (bảy) ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

2- Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Lê Thị Ngọc Ch, Lê Thị Th và Huỳnh Thị Châu H3, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

3- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 20 tháng 3 năm 2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 128/2023/HS-PT

Số hiệu:128/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về