TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 128/2021/HSST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15/6/2021, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý: 99/2021/HSST ngày 07 tháng 5 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2021/HSST-QĐ ngày 02/6/2021 đối với bị cáo:
Họ tên: Quàng Minh N, sinh năm 2001; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Bản L, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 11/12 ; Nghề nghiệp: Tự do; Họ tên bố: Quàng Văn L, sinh năm 1978; Họ tên mẹ: Lò Thị H, sinh năm 1979; Tiền án, tiền sự: không. Danh bản và chỉ bản số 160, lập ngày 02/02/2021 tại Công an quận Bắc Từ Liêm. Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 29/1/2021. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo : Ông Trương Công Đ – Trợ giúp viên pháp lý.( Có mặt tại phiên tòa )
*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Tòng Văn T, sinh năm 2003; Nơi ĐKNKTT: Bản X, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Anh Phạm Văn N, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Quàng Minh N bị Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm truy tố về hành vi phạm tội như sau: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 29 tháng 01 năm 2021, Tổ công tác Công an phường X, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội phát hiện, bắt quả tang Quàng Minh N có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phạm Văn N tại ngõ 38 đường X, phường X, Bắc Từ Liêm, Hà Nội nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và đưa N, N về trụ sở làm rõ.
Quá trình điều tra xác định: Ngày 27, 28/01/2021, Quàng Minh N và Tòng Văn T đến phòng trọ của bạn là Lò Văn Q (SN: 2000; HKTT: xã Mường Lạn, Mường Ảng, Điện Biên) tại số 5 ngõ 36 X, T, Hà Nội để chơi. Đến 20 giờ ngày 28/01/2021, N đi một mình đến khu vực đường V thuộc phường P, T, Hà Nội tìm mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Tại đây, N gặp một người nam thanh niên tên “Toàn” (không rõ nhân thân, lai lịch) và hỏi mua của “Toàn” 200.000 đồng heroin. Toàn đưa N 02 gói giấy bạc trong chứa heroin. Sau khi mua được ma túy, N cất vào trong túi quần bên phải phía trước rồi đi về phòng trọ của Lò Văn Q để ăn cơm, uống rượu với T và Q. Sau khi ăn xong, Q đi ngủ trước, N lấy ra một ít Heroin cho vào tờ giấy bạc sử dụng. Thấy N sử dụng, T có xin N sử dụng cùng. Sau khi sử dụng, phần còn lại N cất giấu vào túi quần bên phải. Đến khoảng 16 giờ ngày 29/01/2021, Phạm Văn N sử dụng số điện thoại 0528578974 gọi vào số điện thoại 0367004490 của N để hỏi mua 300.000 đồng ma túy Heroine. N đồng ý và hẹn N ra quán trà chanh ở đầu ngõ 38/24 đường X, phường X, Bắc Từ Liêm, Hà Nội để giao dịch. Sau đó, N một mình vào nhà vệ sinh lấy gói ma túy trong túi quần ra chia làm ba gói nhỏ bọc bằng giấy bạc rồi dùng túi nilon màu trắng kích thước khoảng 2x1cm cuốn chặt, rồi dùng bật lửa hàn kín lại. Sau đó, N đi ra ngoài và đưa cho T cầm gói nilon và bảo T “cầm hộ phát để đi vệ sinh” thì T đồng ý. Sau đó, N rủ Tòng Văn T đi chơi điện tử, T đồng ý rồi cả hai đi đến gần quán trà chanh ở đầu ngõ 38/24 đường X. N vào quán tạp hóa mua một bao thuốc lá Thăng Long và bỏ 05 điếu thuốc ra rồi đưa bao thuốc lá cho T và bảo “bỏ gói ni lông vào”, T làm theo. Lúc này, N gọi điện cho N, N nhìn thấy N đứng ở bên kia đường thì N bảo T “mang bao thuốc sang cho thằng kia lấy 300.000 đồng về”. T cầm bao thuốc lá đi sang đưa cho N. Khi gặp N, N vừa đưa cho T số tiền 210.000 đồng còn T chưa kịp đưa ma túy cho N thì bị tổ công tác Công an phường X, Bắc Từ Liêm, Hà Nội bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ của: Tòng Văn T: 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói nilong màu trắng kích thước 02x1 cm, bên trong gói ni lông có 03 gói nhỏ bọc bằng giấy bạc, bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động Vmart Star4 màu xanh có số thuê bao 0344277352, số Imei 355123111640810; Số tiền 210.000 đồng. Quàng Minh N: 01 điện thoại di động IPhone6s Plus màu hồng lắp số thuê bao 0367004490.Phạm Văn N: 01 điện thoại di động Masstel màu xanh, lắp số sim: 0528378974; Số tiền 90.000 đồng gồm 02 tờ mệnh giá 20.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 50.000 đồng.
Ngày 29/1/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 139A đối với số ma túy đã thu giữ của Tòng Văn T Tại bản kết luận giám định số 1378 ngày 05/2/2021 của Phòng KTHS Công an TP Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 03 gói giấy bạc (để bên trong 01 gói ni lông) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,228 gam”.
Tại thời điểm bắt quả tang (ngày 29/1/2021), Tòng Văn T khai: N đưa cho T 01 gói ma túy và sau đó bảo T mang gói ma túy đưa cho N. Tại các lời khai sau, T khai T không biết trong gói ni lông N đưa cho T là cái gì vì gói ni lông được cuốn kín, T không nhìn thấy được bên trong gói ni lông có gì và N cũng không nói T biết trong gói ni lông có gì. Khi cơ quan công an bắt quả tang mở gói ni lông bị thu giữ ra thì T mới biết bên trong đó là ma túy nên lời khai tại công an phường, T khai luôn là N đưa cho T 01 gói ma túy và bảo T mang gói ma túy cho N.
Đối với Quàng Minh N: tại lời khai ở công an phường X ngày 29/1/2021, N khai “T biết rõ N bán ma túy”. Sau đó, N thay đổi lời khai là: do lúc mới bị bắt, sợ tội nặng nên N khai như vậy. Nhưng thực chất N không nói cho T biết trong gói ni lông có gì. Quá trình chia ma túy và cuốn lại T không biết. N cũng không nói cho T biết quan hệ của N và N.
Xét thấy, ngoài các lời khai ban đầu, cơ quan điều tra không có chứng nào khác chứng minh Tòng Văn T đồng phạm mua bán trái phép chất ma túy đối với Quàng Minh N nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.
Công an phường X, Bắc Từ Liêm, Hà Nội đã phối hợp với Công an phường P, T, Hà Nội dẫn giải Quàng Minh N chỉ địa điểm mua ma túy là tại đối diện Chung cư UDIC Westlake, đường V, P, T, Hà Nội. Quá trình rà soát cơ quan điều tra chưa phát hiện được đối tượng “Toàn” bán ma túy cho N.
Đối với Lò Văn Q, khi cho T, N ở nhờ không biết việc N, T sử dụng ma túy và cũng không biết việc N cất giấu ma túy và bán ma túy nên không có căn cứ xử lý.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tòng Văn T, ngày 20/4/2021, cơ quan điều tra đã xử phạt T theo căn cứ tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ.
Đối với các vật chứng gồm 01 bao thuốc lá Thăng Long trong có chứa gói ma túy, số tiền 300.000 đồng N dùng để mua ma túy, 01 điện thoại di động IPhone6s Plus của N, 01 điện thoại di động Masstel màu xanh của N dùng để liên lạc mua bán ma túy, 01 điện thoại di động Vmart Star4 của T tiếp tục chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm để xử lý theo quy định pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 104/CT-VKS ngày 06/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm quyết định truy tố bị cáo Quàng Minh N về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy“ theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận tội như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo là người dân tộc, lần đầu bị đưa ra xét xử.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm luận tội: Khẳng định bản cáo trạng truy tố Quàng Minh N là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Quàng Minh N về tội” “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo Khoản 1 Điều 251, khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Quàng Minh N với mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Do bị cáo không có thu nhập nên đề nghị toà án không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Xử lý vật chứng: theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng hình sự : Các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an quận Bắc Từ Liêm, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền , trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về căn cứ buộc tội: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại ngõ 38 đường X, phường X, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Quàng Minh N bán trái phép 0,228 gam heroin cho Phạm Văn N với giá 300.000 đồng thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo Quàng Minh N đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP.
Hà Nội truy tố bị cáo Quàng Minh N là có căn cứ, đúng pháp luật.
- Bị cáo là người đã trưởng thành, có khả năng nhận thức được tác hại của ma túy biết hành vi mua bán trái pháp chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Ma túy là một hiểm họa mà cả nhân loại đang ra sức loại trừ khỏi đời sống xã hội, nó làm ảnh hưởng tới sức khỏe và kinh tế gia đình, làm hủy hoại nhân cách con người và còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều tội phạm hình sự khác.
- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Bị cáo thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc Thái quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng đối với bị cáo một hình phạt tù nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đối với loại tội phạm về ma túy. Bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
[3] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong chứa ma túy sau giám định và 01 gói nilon, 01 vỏ bao thuốc lá, 03 gói giấy bạc, tại các mép dán có chữ ký giáp lai của Tòng Văn T, cán bộ niêm phong và Giám định viên, bí thư đoàn phường; Tịch thu sung công; 01 điện thoại di động IPhone6s Plus màu hồng lắp số thuê bao 0367004490; 01 điện thoại di động Masstel màu xanh, lắp số sim: 0528378974; Số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt N là công cụ, phượng tiện bị cáo sử dụng vào hành vi phạm tội. Trả lại cho Tòng Văn T 01 điện thoại di động Vmart Star4 màu xanh có số thuê bao 0344277352, số Imei 355123111640810 [4] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Quàng Minh N phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điểm s, Khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Quàng Minh N 24 ( Hai mươi tư ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2021.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ Luật Hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong chứa ma túy sau giám định và 01 gói nilon, 01 vỏ bao thuốc lá, 03 gói giấy bạc, tại các mép dán có chữ ký giáp lai của Tòng Văn T, cán bộ niêm phong và Giám định viên, bí thư đoàn phường; Tịch thu sung công; 01 điện thoại di động IPhone6s Plus màu hồng lắp số thuê bao 0367004490; 01 điện thoại di động Masstel màu xanh, lắp số sim: 0528378974; Số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt N. Trả lại cho Tòng Văn T 01 điện thoại di động Vmart Star4 màu xanh có số thuê bao 0344277352, số Imei 355123111640810 (Theo biên bản bàn giao nhận vật chứng số 167/21 ngày 25 tháng 5 năm 2021 giữa công an quận Bắc Từ Liêm và Chi cục thi hành án quận Bắc Từ Liêm).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/ 2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Quàng Minh N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 128/2021/HSST
Số hiệu: | 128/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về