TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 128/2021/HS-PT NGÀY 27/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2021/TLPT-HS ngày 01 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo Phạm Chánh T, Phùng Minh H do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2021/HS-ST ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Phạm Chánh T (tên gọi khác: Nô), sinh ngày 13/8/2000, tại Quảng Nam; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ 11, phường T, quận T, thanh phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H (chết) và bà Nguyễn Thị Nh (còn sống); Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Chưa.
Về nhân thân:
- Ngày 22/11/2018, bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015 tại Bản án số 94/2018/HSST, chấp hành xong ngày 08/10/2019.
- Ngày 17/5/2021, bị Công an huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định 116/QĐ-XPHC.
- Ngày 02/7/2021, bị Ủy ban nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, với số tiền 15.000.000 đồng về hành vi tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ tại Quyết định 2543/QĐ- XPVPHC.
Bị bắt ngày 15/4/2021. Bị cáo hiện đang tạm giam; Có mặt tại phiên tòa.
2. Phùng Minh H, sinh ngày 10/7/1996, tại Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ 68, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông (không rõ) và bà Phùng Thị Th (còn sống); Chưa có vợ, con; Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 24/6/2020, bị Công an quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, với số tiền 3.500.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản tại Quyết định 120/QĐ-XPHC.
Về nhân thân: Ngày 17/5/2021, bị Công an huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định 117/QĐ-XPHC.
Bị bắt tạm giam ngày 15/4/2021; Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho các bị cáo Phạm Chánh T và Phùng Minh H:
Luật sư Phạm Văn Nh, Đoàn Luật sư TP. Đà Nẵng, bào chữa theo yêu cầu của gia đình các bị cáo. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/4/2021, Công an huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng tiến hành tuần tra, kiểm soát trên Tu đường H thuộc thôn Đ, xã H, huyện H, TP Đà Nẵng thì phát hiện Phạm Chánh T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 43A-53.888 chở theo Phùng Minh H đang lưu thông có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra, nhưng Tu không chấp hành và tăng ga bỏ chạy về hướng quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng. Lực lượng Công an tiến hành đuổi theo đến trước số nhà 78 đường N, thuộc quận L, TP Đà Nẵng thì phát hiện xe ô tô do T điều khiển va chạm với một xe ô tô tải khác nên khống chế được T và H. Qua kiểm tra xe ô tô biển kiểm soát 43A-53.888 thì phát hiện trên xe có một bình xịt hơi cay, một con dao bằng cán gỗ dài khoảng 35cm, qua đấu tranh Phạm Chánh T và Phùng Minh H khai nhận, cụ thể:
Phạm Chánh T là đối tượng thường xuyên sử dụng ma túy, để có ma túy sử dụng và có tiền tiêu xài nên vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 2021, T đi đến khu vực đường 1, phường H, quận C, TP. Đà Nẵng tìm gặp và mua của đối tượng tên Bin (không rõ nhân thân, lai lịch) một gói ma túy với giá 1.200.000 đồng. Sau khi giao dịch, T nói Bin phân chia ra thành 02 gói ma túy khác nhau nhằm mục đích sử dụng và bán lại cho những con nghiện khác.
Vào khoảng 16 giờ ngày 14/4/2021, Phạm Chánh T đang ở chợ Đ, TP Đà Nẵng thì Trần Văn Đ (Tên gọi khác: Tu hoặc Tu Ah, sinh năm 1979; trú tại: K09/27 đường N, phường H, quận C, TP Đà Nẵng) sử dụng số điện thoại 0905.388.xxx gọi đến số thuê bao 0898.190.xxx mà T sử dụng để hỏi mua 1.700.000 đồng ma túy. Do T còn ít ma túy nên thỏa thuận bán cho Đ với giá 500.0000 đồng rồi h n giao dịch tại ngã tư đường Hoàng Văn Thái và đường tránh Nam Hải Vân. Sau đó, T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 43A-538.88 (xe ô tô này T thuê của bà Nguyễn Thị Á) trước đó về nhà của mình tại tổ 11, phường T, quận T, TP Đà Nẵng thì thấy Phùng Minh H nên rủ đi cùng để bán ma túy, H đồng ý. Lúc đi trên xe, Tu nói với Ho khi người mua đưa tiền cho Tu thì Ho vứt ma túy xuống đường để người mua lấy. Tuy nhiên, khi đến nơi Tu và Ho đang ngồi trong xe ô tô đợi thì lực lượng Công an đến kiểm tra nên Tu điều khiển xe ô tô bỏ chạy. Trong quá trình bỏ chạy, Ho lấy gói ma túy, bộ dụng cụ sử dụng ma túy và một cân tiểu li vứt ra khỏi xe.
Sau đó, lực lượng Công an yêu cầu dẫn đến địa điểm để truy tìm tang vật theo khai nhận của Tu và Ho. Sau khi tìm kiếm, lực lượng Công an thu giữ được:
- Tại đường H hướng đi về quận Liên Chiểu thuộc Tổ 70, phường H, quận L, TP Đà Nẵng nằm trên đường H theo hướng Hòa Sơn đi Liên Chiểu phát hiện 01 túi màu xanh bên trong có một bộ dụng cụ sử dụng ma túy.
- Cách vị trí phát hiện túi màu xanh nêu trên khoảng 145m về hướng Liên Chiểu, phát hiện, thu giữ 01 gói nilong bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (Theo khai nhận của Tu là ma túy đá) nên tiến hành niêm phong theo quy định.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra Phạm Chánh T và Phùng Minh H còn khai nhận trước đó đã bán ma túy hai lần, cụ thể:
Lần 1: Vào chiều ngày 13/4/2021, Trần Văn Đ sử dụng số điện thoại 0905.388.xxx gọi đến số thuê bao 0898.190.xxx mà Tu sử dụng để hỏi mua 500.000 đồng ma túy thì Tu đồng ý. Sau đó, Tu điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 43A-538.88 cùng với Phùng Minh H mang gói ma túy đến khu vực trước Đình Đại La trên đường H giao dịch với Đi để hưởng lợi 200.000 đồng. Khi gặp nhau, Tu trực tiếp lấy tiền, còn Ho cầm gói ma túy bên trong bao thuốc lá vứt xuống đường để Đ lấy.
Lần 2: Vào khoảng ngày 10/4/2021, Trần Thanh Tr (Tên gọi khác: Tèo La) sinh năm: 1989, trú: phường H, quận C, TP Đà Nẵng liên hệ với Phạm Chánh T hỏi mua 300.000 đồng ma túy thì Tu đồng ý. Sau đó, Tu khiển xe ô tô biển kiểm soát 43A-538.88 cùng với Ho mang ma túy đi đến khu vực đường H thuộc phường H, quận L, TP Đà Nẵng giao dịch với Tr để hưởng lợi 100.000 đồng. Tại đây, Tu là người trực tiếp lấy tiền từ Tr, còn Ho vứt gói ma túy trong hộp bánh đậu xanh xuống đường để Tr lấy.
Tại kết luận giám định số: 109/GĐ-MT ngày 20/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Đà Nẵng kết luận: “Chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong gửi giám ịnh là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng mẫu tinh thể: 1,048 gam”.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2021/HS-ST ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Phạm Chánh T và Phùng Minh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt:
- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Chánh T 09 (chín) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 15/4/2021.
- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phùng Minh H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 15/4/2021.
Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo bản án.
Ngày 06/10/2021, các bị cáo Phạm Chánh T, Phùng Minh H có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, các bị cáo xin HĐXX xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Tu, Ho giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và xin HĐXX xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục: Đơn kháng cáo của các bị cáo Phạm Chánh T, Phùng Minh H theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo, nên đảm bảo, hợp lệ.
+ Về nội dung kháng cáo: Xét Bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2021/HS-ST ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo Phạm Chánh T, Phùng Minh H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng, qua đó xử phạt bị cáo Tu 09 (chín) năm, 06 (sáu) tháng tù và bị cáo Ho 08 (tám) năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo Tu không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, riêng bị cáo Ho sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có tác động gia đình nộp tiền phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm, tuy nhiên tình tiết này cũng không làm thay đổi về mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo Ho. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
* Luận cứ Phạm Văn Nh người bào chữa cho các bị cáo Phạm Chánh T, Phùng Minh H có quan điểm luận cứ bào chữa như sau: Hoàn tòan thống nhất về tội danh như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đ tuyên bố các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên không có tranh luận về tội danh. Tuy nhiên, Luật sư cho rằng về hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo là quá nghiêm khắc, bởi lẻ: Các bị cáo tuy có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng không mang tính chuyên nghiệp, có tính tự phát với mục đích có ma túy sử dụng cho bản thân và tiền tiêu xài, vì vậy, các bị cáo chỉ mua bán dưới hình thức nhỏ lẻ, khối lượng ma túy không lớn, điều này được thể hiện tại kết luận giám định số: 109/GĐ-MT ngày 20/4/2021 của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng kết luận “Chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong gửi giám ịnh là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng mẫu tinh thể: 1,048 gam”, số tiền thu lợi bất chính chỉ 300.000đ;
Mặt khác, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tự thú khai ra những lần phạm tội trước đó, nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo tinh tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS. Mặc dù trong vụ án này có hai bị cáo cùng tham gia, nhưng đối với bị cáo Ho do bị cáo Tu rủ rê, lôi kéo tham gia với vai trò thứ yếu chỉ hưởng lợi được bị cáo Tu cho ma túy sử dụng, sau khi xét xử sơ thẩm tuy hoàn cảnh gia đình của bị cáo Ho khó khăn m giá, con côi nhưng bị cáo đ tác động gia đình tự nguyện nộp 50% số tiền phạt bổ sung theo quyết định của bản án sơ thẩm, điều này thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo Ho. Xét các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Đỉều 52 BLHS và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 BLHS; Do đó luật sư đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt cho các bị cáo Tuyên và Ho.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phạm Chánh T, Phùng Minh H cùng khai nhận: Để có ma túy sử dụng và tiền chi tiêu cho mục đích cá nhân, nên vào chiều ngày 14/4/2021 bị cáo Tu điều khiển xe ô tô, biển kiểm soát 43A- 538.88 chở theo bị cáo mang theo 01 gói ma túy đến tại địa điểm ng tư đường H và đường tránh Nam Hải Vân thuộc địa bàn thôn Đ, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng để bán cho đối tượng Đi với giá 500.000đ như đ thỏa thuân, tuy nhiên, khi đến địa điểm trên chưa kịp giao dịch mua bán thì bị phát hiện bắt giữ thu giữ của các bị cáo 01 gói ma túy chưa kịp bán có khối lượng 1,048 gam như kết luận giám định; Ngoài ra các bị cáo cũng đ khai nhận trước đó vào các ngày 10/4/2021 và ngày 13/4/2021 các bị cáo có bán cho đối tượng Trần Thanh Tr 01 gói ma túy với giá 300.000đ hưởng lợi 100.000đ và bán cho đối tượng tên Đi 01 gói ma túy với giá 500.000đ hưởng lợi 200.000đ. Vì vậy, các bị cáo thừa nhận Bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2021/HS-ST ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, cả hai bị cáo đều cho rằng mức hình phạt tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là quá nặng, nên xin HĐXX xem xét giảm nh cho các bị cáo một phần hình phạt, để có ngắn thời gian cải tạo tốt sớm được đoàn tụ với gia đình.
[2]. Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được tác hại của các chất ma tuý và quy định của pháp luật về việc nghiêm cấm tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng vì mục đích vụ lợi, muốn có tiền để thoả m n nhu cầu của bản thân, các bị cáo đ bất chấp quy định của pháp luật thưc hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần; Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù có thời hạn và cách ly các bị cáo ra ngoài x hội để để cải tạo, giáo dục, răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung cho x hội là cần thiết.
[2.1] Đối với bị cáo Phạm Chánh T, trong vụ án này bị cáo là người có vai trò chính từ việc mua ma túy đến việc thỏa thuận về giá cả, địa điểm và điều khiển phương tiện xe ô tô chở theo bị cáo Ho cùng đi bán ma túy cho các đối tượng mua ma túy (Đi,Tr). Mặc dù bị cáo được xác định chưa có tiền án, tiền sự, nhưng có nhân thân xấu trước đây đ từng bị Tòa án xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị Công an và UBND huyện Hoà Vang xử lý hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, “Tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ, hổ trợ”. Vì vậy, khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đ xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, qua đó xử phạt bị cáo mức hình phạt 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp, không nặng, tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nh nào mới, nên HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin giảm nh hình phạt đối với bị cáo, cũng như đề nghị của Luật sư người bào chữa cho bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện VKS nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa là phù hợp.
[2.2] Đối với bị cáo Phùng Minh H, trong vụ án này chỉ tham gia với vai trò đồng phạm thứ yếu do Tu rủ rê, lôi kéo cùng đi bán ma túy cho Tu và chỉ được hưởng lợi từ việc Tu cho ma túy để sử dụng cho nhu cầu lợi ích bản thân, tuy bị cáo có một tiền sự ngày 24/6/2020 bị Công an quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, về nhân thân bị Công an huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, song với mức hình phạt 08 (tám) năm tù đối với bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, tuy bị cáo đang bị giam giữ nhưng bị cáo đã tác động gia đình (mẹ ruột) của mình trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn nhưng đã tự nguyện nộp số tiền 10.200.000đ, trong tổng số tiền phạt bổ sung và án phí, đây là tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, do đó, HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo xét giảm nh bị cáo một phần hình phạt, sửa một phần bản án sơ thẩm giảm một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của Luật sư người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.
[3] Về áp dụng pháp luật: Xét đây là vụ án có đồng phạm, Tòa án cấp sơ thẩm tuy có đánh giá, xác định vai trò của từng bị cáo trong vụ án, tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 58 BLHS là có thiếu sót, nên cần rút kinh nghiệm, nội dung này cấp phúc thẩm bổ sung cho phù hợp.
[4] Đối với số tiền 10.200.000đ do (mẹ ruột) bị cáo Ho bà Phùng Thị Th nộp thay cho bị cáo, thì tiếp tục quy trữ tạm giữ nhằm đảm bảo cho việc thi hành án.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6]. Bị cáo Tu phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, riêng bị cáo Ho không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Chánh T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
1.1. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Chánh T 09 (chín) năm, 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 15/4/2021.
2. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phùng Minh H sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Ho.
2.1. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phùng Minh H 07 (bảy) năm, 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 15/4/2021.
3. Tiếp tục quy trữ tạm giữ số tiền 10.200.000đ (Mười triệu, hai trăm ngàn ồng) của bị cáo Phùng Minh H (do mẹ ruột bà Phùng Thị Th) nộp thay theo BL thu tiền số 0000011 ngày 12/11/2021 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng nhằm đảm bảo cho việc thi hành án.
4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
Bị cáo Phạm Chánh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Phùng Minh H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 128/2021/HS-PT
Số hiệu: | 128/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về