TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 127/2023/HS-ST NGÀY 08/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 09 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 133/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2023/QĐXXST- HS ngày 25/8/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lỳ Mò D; Tên gọi khác: không; Sinh năm 1996. Nơi cư trú: bản V, xã T, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: La Hủ; Giới tính: nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lỳ Phu C (đã chết) và bà Vàng Ná N (Đã chết); Bị cáo có chồng là Phản Cha Đ- sinh năm 1981 và có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2019; Gia đình bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2023 cho đến nay (có mặt).
- Người làm chứng: anh Lỳ Hừ C - sinh năm 1997 Trú tại: bản T, xã P, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu (vắng mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: ông Nguyễn Xuân O là Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 ngày 23/4/2023, tại đoạn đường liên bản V - Nhóm P thuộc xã T, huyện Mường Tè, Lỳ Mò D đã mua được của một người đàn ông lạ mặt 11 gói Heroine với số tiền 400.000 đồng. Mua được Heroine, D cất giấu vào trong túi thổ cẩm đeo trên người rồi đi bộ về nhà ở bản V, xã T, huyện Mường Tè. Mục đích D mua số Heroine nêu trên là để bán lại kiếm lời và trả công cho người làm thuê. Đến khoảng 07 giờ ngày 24/4/2023, khi D đang ở nhà một mình thì có Ly Hừ C, sinh năm 1997, trú tại bản T, xã P, huyện Mường Tè đến hỏi mua Heroine để sử dụng. Sau khi trao đổi thỏa thuận, D đã lấy 01 gói Heroine mà D đang cất giấu trong túi thổ cẩm đeo trên người ra bán cho C với giá 50.000 đồng. Số Heroine còn lại D tiếp tục cất giấu trong túi thổ cẩm như cũ.
Sau khi mua được Heroine, C đem đến ngôi nhà bỏ hoang cách nhà D khoảng 200m để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Tá Bạ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ gói Heroine C mới mua được của D. Từ lời khai của C, Cơ quan Công an huyện Mường Tè đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở và ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lý Mò D. Quá trình thực hiện các quyết định nêu trên, D đã đem ra giao nộp cho cơ quan Công an 10 gói Heroine còn lại mà D đang cất giấu và số tiền 50.000 đồng do bán Heroine cho Ly Hừ C mà có.
Tại bản kết luận giám định tư pháp số 61 ngày 24/4/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường Tè, đã kết luận: 01 gói chất bột khô, màu trắng thu giữ của Ly Hừ C có khối lượng là 0,05 gam.
Tại bản kết luận giám định số 497 ngày 26/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy; loại: Heroine… Tại bản kết luận giám định tư pháp số 62 ngày 24/4/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường Tè, đã kết luận: Tổng khối lượng chất bột khô, màu trắng thu giữ của Lỳ Mò D có khối lượng là 0,74 gam.
Tại bản kết luận giám định số 498 ngày 29/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 10 (mười)Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu từ Mấu 01 đến mẫu 10) gửi giám định là ma túy; loại: Heroine… Tại bản kết luận giám định số 499 ngày 27/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 02 (Hai) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) có mã số hiệu: CN 21971675, YX 21198985 và 01 (Một) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000₫ (Mười nghìn đồng) có mã số hiệu: UU 18444943 gửi giám định đều là tiền thật.
Tại bản cáo trạng số 93/CT-VKS-MT ngày 18/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu đã truy tố Lỳ Mò D về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phân tích các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Tuyên bố bị cáo Lỳ Mò D phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", xử phạt bị cáo Lỳ Mò D mức án từ 02 năm 04 tháng đến 02 năm 10 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 11 mảnh nilon màu xanh; tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 50.000 đồng.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa nhất trí với nội dung, quyết định truy tố. Không có ý kiến tranh luận về tội danh, điều luật, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như xử lý vật chứng, các biện pháp tư pháp mà Kiểm sát viên đã đề nghị. Tuy nhiên người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ, hoàn cảnh gia đình bị cáo đang nuôi con nhỏ để cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng, đồng ý với quan điểm của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Mường Tè, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:
Xét lời khai nhận của bị cáo Lỳ Mò D tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu đã truy tố.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ ngày 24/4/2023, tại nhà của Lý Mò D thuộc bản V, xã T, huyện Mường Tè, Lỳ Mò D đã bán trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,05 gam cho Ly Hừ C với giá 50.000 đồng. Ngoài ra D còn tàng trữ 0,74 gam Heroine nhằm mục đích để trả công cho người làm thuê và bán kiếm lời. Số Heroine mà D đã bán cho C và số Heroine D đang tàng trữ có chung nguồn gốc. Do đó, Lỳ Mò D phải chịu trách nhiệm về hành vi bán trái phép chất ma túy với tổng khối lượng Heroine là 0,79 gam.
Bị cáo Lỳ Mò D có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi nêu trên của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý đặc biệt về mua bán các chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lời bất chính nên vẫn cố ý thực hiện. Hành vi mua bán trái phép 0,79 gam Heroine để kiếm lời đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Vì vậy quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với tính chất, mức độ cũng như hành vi phạm tội của bị cáo nên cần được chấp nhận.
Quan điểm của người bào chữa: đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt là không có căn cứ, chưa tương xứng với tính chất cũng như mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên không được chấp nhận.
Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lỳ Mò D chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên Hội đồng xét xử cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, ... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, công việc và thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Về vật chứng của vụ án: 0,79 gam Heroine đã gửi toàn bộ đi giám định không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết, 11 mảnh nilon màu xanh là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. 02 tờ tiền Polymer mệnh giá 20.000 đồng, 01 tờ tiền Polymer mệnh giá 10.000 đồng là tiền bị cáo bán Heroine mà có nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.
[6]. Về những vấn đề khác:
Đối với người đàn ông mà theo lời khai đó là người đã bán Heroine cho bị cáo: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được người đó là ai nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.
Đối với Ly Hừ C: Do khối lượng Heroine mà C tàng trữ để sử dụng dưới mức tối thiểu quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 BLHS và không thuộc trường hợp quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 249 BLHS nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Tè đã xử phạt hành chính đối với C là hoàn toàn phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
[7]. Về án phí: Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 46; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135, Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Tuyên bố bị cáo Lỳ Mò D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt bị cáo Lỳ Mò D 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/4/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 11 mảnh nilon màu xanh, tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 50.000 đồng.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Tè với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường Tè được lập vào hồi 16 giờ 30 phút ngày 24 tháng 8 năm 2023)
4. Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 127/2023/HS-ST
Số hiệu: | 127/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về