Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 115/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 115/2022/HS-ST NGÀY 21/12/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2022/TLST- HS ngày 02 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Tạ Duy T (tên gọi khác: Không); sinh năm 1984 tại huyện K, tỉnh N; nơi cư trú: Xóm 10, xã A, huyện K, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Ngọc P và bà Nguyễn Thị L. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/7/2022 đến ngày 27/7/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N; có mặt.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Trần Văn S – sinh năm 1995; Địa chỉ: Xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh N; vắng mặt.

+ Anh Trần Văn T1 – sinh năm 1993; Địa chỉ: Xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh N; vắng mặt.

+ Anh Phạm Đức T2 – sinh năm 1985; Địa chỉ: Phố 3, phường V, thành phố N, tỉnh N; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Hữu T3; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Trần Văn H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tạ Duy T là người nghiện ma túy, để có tiền sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân T đi mua ma túy về chia nhỏ thành nhiều phần để sử dụng và bán lại cho người nghiện. Trong các ngày 20, 21 và 22/07/2022, Tạ Duy T đã 02 lần bán ma túy cho Trần Văn S sinh năm 1995, trú tại xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh N và cất giữ trái phép trong người và chỗ ở ma túy nhằm mục đích bán cho người nghiện, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 19 giờ ngày 19/07/2022, Tạ Duy T đi bộ từ nhà đến khu vực cầu Q thuộc xóm 10, xã A, huyện K, tỉnh N gặp và mua được 01 gói ma Túy được gói ngoài bằng giấy màu vàng với giá 200.000 đồng của một người đàn ông khoảng 30 tuổi. Sau đó, T mang gói ma túy về nhà sử dụng một ít, số còn lại T chia thành 02 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng. Đến khoảng 13 giờ ngày 20/07/2022, khi đang ở nhà thì T nhận được điện thoại của Trần Văn S có số điện thoại là 091961xxxx gọi đến số điện thoại của T là 056651xxxx hỏi mua 200.000 đồng ma Túy. T đồng ý và hẹn S ra khu vực đường ĐT 481 thuộc xóm 10, xã A, huyện K để bán cho S. Khoảng 13 giờ 26 phút cùng ngày, S cùng với Trần Văn T sinh năm 1993, trú tại xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh N đi xe máy đến chỗ hẹn gặp T. S đưa cho T 200.000 đồng và T đưa cho S 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Craven bên trong có 02 gói ma túy gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, sau đó S và T điều khiển xe về nhà sử dụng hết số ma túy trên.

Lần thứ hai: Khoảng 21 giờ ngày 20/7/2022, Tạ Duy T đi bộ từ nhà đến khu vực cầu Q thuộc xóm 10, xã A, huyện K, tỉnh N gặp hỏi và mua được 01 gói ma Túy gói ngoài bằng giấy bạc mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng với giá 100.000 đồng. Sau đó T mang về nhà và sử dụng một ít, còn lại để bán. Đến trưa ngày 21/7/2022, khi đang ở nhà thì T nhận được điện thoại của S hỏi mua 200.000 đồng ma Túy, T đã nhận lời và hẹn S đến chỗ cũ. Khoảng 13 giờ ngày 21/7/2022, T gặp S và Trần Văn T1, S đưa cho T 2 tờ 100.000đồng nhưng do chỉ còn gói 100.000 đồng nên T cầm 01 tờ 100.000 đồng và đưa cho S 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc bên ngoài màu trắng bên trong màu vàng và bảo S đợi để đi lấy thêm nhưng S và T không đợi và đi về luôn. Sau đó S và T chia nhau mang về nhà sử dụng hết.

Lần thứ ba: Khoảng 21 giờ ngày 21/7/2022, T đi bộ từ nhà đến địa điểm như 02 lần trước, gặp và mua được 01 gói ma túy gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng với giá 200.000 đồng của một người đàn ông không quen biết. Sau khi mua được, T về nhà lấy ra một ít để sử dụng, phần còn lại T dùng dao lam chia nhỏ thành 03 gói, trong đó có 02 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng và 01 gói, gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng cất ở đầu giường ngủ của T. Đến khoảng hơn 10 giờ ngày 22/7/2022, T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của S gọi hỏi mua 200.000 đồng ma túy, T đồng ý, hẹn S đến địa điểm cũ. Do S không có tiền nên đã đi bộ đến chỗ hẹn để báo cho T là không mua nữa. Đến khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày khi T vừa gặp S, chưa kịp trao đổi gì thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh N phát hiện,. T thả 02 gói nhỏ ma túy đang cầm trên tay trái xuống đất ở vị trí đang đứng, Tổ công tác phát hiện và lập biên bản thu giữ, niêm phong.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ 02 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng niêm phong trong phong bì ký hiệu là Q1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen lắp sim số 0566.518.xxx của T niêm phong trong phong bì ký hiệu Q2. Thu giữ của Trần Văn S 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel màu đen lắp sim số 091961xxxx và 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy màu đen trong đó có đoạn video ghi lại việc mua bán ma túy giữa T và S các ngày 20/7/2022 và 21/7/2022.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Tạ Duy T tại xóm 10, xã A, huyện K: Thu giữ 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng có kích thước (1x0,5)cm ở trong chăn để đầu giường phòng ngủ của T ký hiệu K; Thu giữ tại chiếu trải ở sàn nhà: 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 lưỡi dao lam; 01 mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (11x08)cm, 01 mảnh giấy bạc màu trắng đã bị than hóa một phần kích thước (3x7)cm.

Tiến hành mở niêm phong 02 phong bì Q1 và K thu giữ của T khi bắt quả tang và khám xét: bên trong phong bì Q1 có 02 gói nhỏ bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 có tổng khối lượng là 0,1078 gam. Bên trong phong bì K có 01 gói nhỏ bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M2 có khối lượng là 0,1732 gam gửi trưng cầu giám định.

Kết luận giám định số 576/KL-KTHS-MT ngày 27/72022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N: Kết luận mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng là 0,1078 gam; M2 có khối lượng là 0,1732 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng M1, M2 là 0,2810 gam đều là ma túy, loại Heroin Kết luận giám định số 687 ngày 21/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N: Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 02 tập video gửi giám định.

Quá trình điều tra, Tạ Duy T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 118/CT-VKS ngày 29/11/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh N truy tố bị cáo Tạ Duy T về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Tạ Duy T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng và đề nghị áp dụng thêm tình tiết tự thú đối với bị cáo. Không áp dụng khoản 5 Điều 251 do bị cáo thuộc hộ nghèo và không có tài sản riêng.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tạ Duy T từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 22 tháng 07 năm 2022.

Về xử lý vật chứng và áp dụng các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng của vụ án gồm:

- Khối lượng ma túy gồm M1 = 0,0656 gam, M2 = 0,1456 gam ma túy loại Heroin còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong bỏ trong một 01 phong bì niêm phong ghi số 576/KL-KTHS-MT; 01 mảnh giấy bạc màu vàng; 01 mảnh giấy bạc màu trắng bị than hóa một phần; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 Dao lam;

01 Vỏ phong bì ký hiệu Q2 bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐTT.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu V bên trong có 02 vỏ phong bì ký hiệu Q và K; 02 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 mảnh giấy bạc màu trắng.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐTT.

Buộc bị cáo Tạ Duy T phải nộp lại 300.000đ tiền đã bán ma Túy cho S vào ngày 20 tháng 7 năm 2022 và ngày 21 tháng 7 năm 2022.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tạ Duy T do thuộc đối tượng hộ nghèo.

Tại phiên tòa bị cáo Tạ Duy T đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 10 phút ngày 22 tháng 7 năm 2022, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ lập hồi 12 giờ 25 phút ngày 25 tháng 7 năm 2022. Biên bản khám xét lập hồi 13 giờ 10 phút ngày 22 tháng 7 năm 2022. Kết luận giám định và các vật chứng đã thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày 20,21 và 22/7/2022, tại khu vực đường ĐT 481 thuộc xóm 10, xã A, huyện K, Tạ Duy T đã 03 lần có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Văn S để thu lợi bất chính cụ thể như sau: Khoảng 13 giờ 26 phút ngày 20/7/2022 Tạ Duy T có hành vi bán 02 gói ma Túy cho Trần Văn S lấy 200.000 đồng. Khoảng 13 giờ ngày 21/7/2022 T có hành vi bán 01 gói ma túy cho Trần Văn S lấy 100.000 đồng và hồi 10 giờ 40 phút ngày 22/7/2022, T có hành vi cất giấu trái phép trong người 0,1078 gam ma túy, loại Heroine mục đích để bán cho Trần Văn S, đồng thời T còn cất giấu trái phép tại nơi ở 0,1732 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng và bán kiếm lời.

Heroin là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9 ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ –CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ.

[2] Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tội mua bán trái phép chất ma túy, thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma tuý

1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b, Phạm tội 02 lần trở lên.

.........

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh N đã truy tố bị cáo Tạ Duy T với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật được chấp nhận.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tác động rất xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội. Ma túy là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ và sự phát triển bình thường của giống nòi, làm khánh kiệt về kinh tế của người sử dụng ma Túy gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Trong lúc Nhà nước ta đã và đang có nhiều biện pháp kiên quyết đấu tranh phòng chống ma túy đáng lẽ với trách nhiệm của một người công dân bị cáo phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và tội phạm về ma túy, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội. Nhưng do hám lợi và để phục vụ cho nhu cầu của bản thân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật và cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[4].Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tạ Duy T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi khám xét khẩn cấp nơi ở của mình, tại biên bản ghi lời khai cùng ngày 22 tháng 7 năm 2022 quá trình làm việc với cơ quan chức năng bị cáo đã tự khai ra hai lần bán ma túy trước đó cho anh S vào ngày 20 tháng 07 năm 2022 và ngày 21 tháng 7 năm 2022. Như vậy bị cáo Tạ Duy T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người phạm tội tự thú được theo quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp. Do vậy Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Tạ Duy T mua bán ma Túy với mục đích phục vụ cho nhu cầu của bản thân và bán lại cho con nghiện nhằm thu lời bất chính. Mặt khác gia đình bị cáo thuộc đối tượng hộ nghèo. Do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với các quy định của pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra Cơ sát điều tra Công an tỉnh N đã trả 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy màu đen và 01 điện thoại Masstel màu đen lắp sim số 091961xxxx thuộc sở hữu của anh Phạm Đức T2. Anh T2 cho S mượn điện thoại Masstel và nhờ S bán hộ điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy và không biết gì về việc S sử dụng điện thoại trên để liên lạc mua ma túy và quay lại video việc mua bán ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N đã trả lại 02 điện thoại trên cho anh T2 là đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Những vật chứng còn lại của vụ án căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự xử lý như sau:

- Khối lượng ma Túy gồm M1 = 0,0656 gam, M2 = 0,1456 gam ma Túy loại Heroin còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong bỏ trong một 01 phong bì niêm phong ghi số 576/KL-KTHS-MT; 01 mảnh giấy bạc màu vàng; 01 mảnh giấy bạc màu trắng bị than hóa một phần; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 Dao lam;

01 Vỏ phong bì ký hiệu Q2 bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐTT; 01 phong bì niêm phong ký hiệu V bên trong có 02 vỏ phong bì ký hiệu Q và K; 02 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 mảnh giấy bạc màu trắng. Đây là những vật chứng nhà nước cấm buôn bán và phục vụ cho quá trình điều tra vụ án. Nay cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của Pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐTT. do bị cáo sử dụng để liện lạc với anh S trong việc mua bán ma túy liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước

- Số tiền 300.000đ bị cáo đã bán ma túy cho anh S vào ngày 20 và 21 tháng 7 năm 2022. Tiền do phạm tội mà có nay cần buộc bị cáo Tạ Duy T nộp lại để sung ngân sách nhà nước.

Trong vụ án này có đối tượng Trần Văn S và Trần Văn T là người nghiện ma túy, mục đích S và T đi mua ma túy của Tạ Duy T là để sử dụng cho bản thân, Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu được lượng ma túy nào của S và T do vậy không đủ căn cứ để xử lý S và T về hành vi “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về nguồn gốc ma túy: Tạ Duy T khai mua ma túy của 03 người đàn ông không quen biết tại khu vực cầu Q thuộc xóm 10, xã A, huyện K vào các ngày 19/7/2022, ngày 20/7/2022 và ngày 21/7/2022. Bản thân T không biết tên tuổi, địa chỉ của những người này và nếu gặp lại cũng không nhận dạng được họ. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện K không đủ căn cứ để xác minh, xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo Tạ Duy T thuộc đối tượng hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật hình sự. Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Tạ Duy T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” 2. Xử phạt bị cáo Tạ Duy T 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 22 tháng 07 năm 2022.

3.Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng bao gồm:

- Khối lượng ma túy gồm M1 = 0,0656 gam, M2 = 0,1456 gam ma túy loại Heroin còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong bỏ trong một 01 phong bì niêm phong ghi số 576/KL-KTHS-MT; 01 mảnh giấy bạc màu vàng; 01 mảnh giấy bạc màu trắng bị than hóa một phần; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 Dao lam;

01 Vỏ phong bì ký hiệu Q2 bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐTT.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu V bên trong có 02 vỏ phong bì ký hiệu Q và K; 02 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 mảnh giấy bạc màu trắng.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐTT.

Buộc bị cáo Tạ Duy T phải nộp lại 300.000đ tiền đã bán ma túy cho anh S vào ngày 20 tháng 7 năm 2022 và ngày 21 tháng 7 năm 2022.

(Chi tiết vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 12 năm 2022 giữa Công an huyện K với Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh N).

4.Về án phí: Bị cáo Tạ Duy T thuộc diện gia đình hộ nghèo nên không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/12/2022), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 115/2022/HS-ST

Số hiệu:115/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về