Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 12/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 393/2023/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 383/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Võ Thanh C, sinh năm 1993 tại tỉnh Đ; giới tính: Nam; Nơi thường trú: Nhà số B, Tổ B, ấp K, xã T, thành phố S, tỉnh Đ; chỗ ở trước khi bị bắt: 34/14 đường N, phường T, thành phố V, tỉnh B; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn T1 và bà Trần Thị Tuyết L; gia đình có 03 (ba) anh em;

Tiền án: không;

Tiền sự: Ngày 10/8/2022, bị Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh B ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 94/2022/QĐ-TA thời hạn 12 (mười hai) tháng, ngày 20/4/2023 chấp hành xong chương trình cai nghiện.

Nhân thân:

Ngày 10/10/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh B tuyên phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án 140/2019/HSST; ngày 08/8/2020 chấp hành xong hình phạt tù, đã nộp án phí.

Bị cáo bị bắt ngày 20 tháng 9 năm 2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V (bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 20/9/2023, tại trước hẻm H đường P, Phường B, thành phố V, tỉnh B, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh B phối hợp với Công an P, thành phố V, Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 3 – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển, bắt quả tang Võ Thanh C có hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra, Võ Thanh C khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 20 tháng 9 năm 2023, C đang ở tại khu vực Bến xe V thì có người tên Q (không rõ lai lịch) do C quen biết ngoài xã hội, liên hệ hỏi mua "nửa hộp năm" ma túy đá, C báo giá: 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm ngàn đồng). Q đồng ý và hẹn giao dịch tại hẻm H đường P, Phường B, thành phố V, tỉnh B. Sau đó, C liên hệ cho một người tên T2 (không rõ lai lịch) để hỏi mua 02 (hai) gói ma túy đá với giá 2.000.000đ (hai triệu đồng), T2 đồng ý và hẹn giao dịch tại khu vực cổng sau chợ V, nằm trên đường X, phường T, thành phố V. Khi đến điểm hẹn, T2 đưa cho C 02 (hai) gói ma túy đá, C trả cho T2 2.000.000đ (hai triệu đông) tiền mặt. Sau khi có ma túy, C giấu 01 (một) gói vào trong túi quần phía trước bên trái C đang mặc, gói còn lại C giấu vào trong ví da của C rồi đi đến hẻm H đường P, Phường B, thành phố V, tỉnh B để bán ma túy cho Q.

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 20/9/2023, khi C đang chờ Quậy đến để bán ma túy thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như trên. Gói ma túy thu giữ trong túi quần phía trước bên trái khi bắt quả tang, C khai nhận tàng trữ nhằm mục đích bán cho người tên Q đề hưởng lợi 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng); gói ma túy thu giữ trong ví da của C, C khai nhận tàng trữ nhằm mục đích bán cho người khác để kiếm lời; số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) là tiền cá nhân do C làm thuê có được, không liên quan đến vụ án; điện thoại Cơ quan Công an thu giữ là của C dùng để liên lạc gia đình, bạn bè và sử dụng để mua bán ma túy vào ngày 20/9/2023. C đã mua ma túy của T2 được khoảng 04 (bốn) lần, mỗi lần mua 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) ma túy đá và mang về nhà một mình sử dụng hết. Lần cuối cùng là vào ngày 20/9/2023, C mua ma túy về để bán cho Q thì bị bắt quả tang. Đây là lần đầu tiên C bán ma túy cho Q, ngoài ra C chưa từng bán ma túy cho ai khác. Toàn bộ số ma túy Cơ quan Công an thu giữ khi bắt quả tang, do một mình C bỏ tiền ra mua, không có ai khác tham gia góp tiền, giúp sức hay xúi giục (các bút lục điều tra 63 đến số 86).

Tại Kết luận giám định số 409/KL-KTHS-MT ngày 27 tháng 09 năm 2023 của phòng K, Công an tỉnh B, kết luận:

+ Một phong bì màu trắng (số thứ tự 01), có hình dấu của Công an P, Công an thành phố V, tỉnh B, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Ngô Thị L1, "Võ Thanh C", Trần Thị G, Định Quang Đ, Nguyễn Minh T3, bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất kết tinh không màu - trong suốt (kí hiệu mẫu A1) gửi giám định có khối lượng 2,1746 gam, là ma túy, loại Methamphetamine;

+ Một phong bì màu trắng (số thứ tự 02), có hình dấu và chữ ký như trong phong bì số thứ tự 01, bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất kết tinh không màu - trong suốt (kí hiệu mẫu A2) gửi giám định có khối lượng 1,5106 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Lời khai của Võ Thanh C phù hợp với chứng cứ thu thập được và phù hợp với lời khai của anh Đinh Quang Đ1 là người chứng kiến.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng trong vụ án:

* Lực lượng chức năng thu giữ vật chứng và các tài sản gồm:

+ 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa chất kết tinh không màu - trong suốt, được thu giữ trong túi quần phía trước bên trái mà Võ Thanh C đang mặc (C khai nhận là ma túy đá), qua giám định có khối lượng 2,1746 gam, là ma túy, loại Methamphetamine;

+ 01 (một) gói nylọn hàn kín bên trong chứa chất kết tinh không màu - trong suốt, được thu giữ trong ví da nằm dưới đất ngay chỗ Võ Thanh C đứng (C khai nhận ví da chứa gói ma túy đá của C), qua giám định có khối lượng 1,5106 gam, là ma túy, loại Methamphetamine;

Sau giám định hoàn lại 02 phong bì niêm phong số: 409/1 chứa 1,0449 gam mẫu A1 và 409/2 chứa 0,4232 gam mẫu A2 ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Phòng K Công an tỉnh B.

+ 500.000đ (năm trăm ngàn đồng);

+ 01 (một) điện thoại di động có chữ Redmi, số I: 862625051370741/78, đã qua sử dụng;

Số vật chứng còn lại được chuyển giao cho Cục Thi hành án dân sự thành phố V bảo quản chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 05/CT-VKSTPVT ngày 13/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Võ Thanh C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo mức án từ 04 (bốn) năm đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật của vụ án.

- Đối với số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) là tiền cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo;

Đối với 01 (một) điện thoại di động có chữ Redmi, số I: 862625051370741/78 do liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh; bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra thành phố V và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố V và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 20/09/2023, tại trước nhà số H đường P, Phường B, thành phố V, tỉnh B, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh B phối hợp Công an P, thành phố V, tỉnh B và Đ2 đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 3 – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển bắt quả tang Võ Thanh C đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,6852 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích bán cho người khác để kiếm lời.

Hành vi bị cáo Võ Thanh C đã thực hiện như trên đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo không có công việc ổn định, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác; ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Bản thân bị cáo từng bị xử phạt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, sau khi trở về địa phương, bản thân không lo tu chí làm ăn mà còn ham chơi, đua đòi, tiếp tục phạm tội mới. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm theo quy định pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy có trong 02 (hai) phong bì niêm phong số: 409/1 và 409/2 cùng ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Phòng K Công an tỉnh B.

- Đối với số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) là tiền cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo;

Đối với 01 (một) điện thoại di động có chữ Redmi, số I: 862625051370741/78 do liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Võ Thanh C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thanh C 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 20 tháng 9 năm 2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy có trong 02 (hai) phong bì niêm phong số: 409/1 và 409/2 cùng ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Phòng K Công an tỉnh B.

- Trả lại cho bị cáo số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng);

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động có chữ Redmi, số I: 862625051370741/78 Thực hiện xử lý vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 65/BB- CCTHADS ngày 19 tháng 12 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V quản lý và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 20 tháng 12 năm 2023.

3. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh B xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

Số hiệu:11/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về