TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2024/QĐXXST-HS ngày 11/01/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn X; Không có tên gọi khác; Giới tính: Nam;
Sinh ngày 02/5/1984; Tại: T, L;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh L; quốc tịch: Việt Nam; dân Tộc: Lào; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Lò Văn Ú (đã chết); con bà: Lò Thị B, sinh năm 1939; gia đình bị cáo có 06 anh chị em ruột. Bị cáo là con thứ tư trong gia đình; vợ: Lò Thị K, sinh năm 1984, con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án: không; tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/9/2023 đến ngày 19/9/2023 bị áp dụng biện pháp tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay. (có mặt)
* Người tham gia tố tụng khác:
- Người làm chứng:
1. Anh Đỗ Thành L, sinh năm 1986. Địa chỉ: Bản M, xã S, thành phố L, tỉnh L. (vắng mặt không có lý do)
2. Anh Lò Văn C sinh năm 1974. Địa chỉ: Tổ B, phường Đ, thành phố L, tỉnh L. (vắng mặt không có lý do)
3. Anh Lò Văn P, sinh năm 1982. Địa chỉ: Bản P, xã B, huyện T, tỉnh L (vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ, ngày 16/9/2023 Lò Văn X, sinh ngày 02/5/1984 trú tại bản Phiêng Tâm, xã M, huyện T, tỉnh L đến nhà Lò Văn P, sinh năm 1982 trú tại bản P, xã B, huyện T xây nhà giúp P (anh vợ X). Đến khoảng 12 giờ, X và P đang ở nhà thì có Vàng Văn P1 (X không biết năm sinh, X nghe P1 nói ở bản P, xã M, huyện T) đến chơi, qua nói chuyện P biết P1 có ma túy nên đã đưa cho X 150.000 đồng để mua ma túy, X cầm tiền đưa cho P1, P1 đưa cho P 02 gói Heroine (mỗi gói được gói bằng nilon màu xanh đốt dính một đầu), P cầm Heroine cất đi. Đến khoảng 14 giờ, P đưa cho X 02 gói Heroine và dặn có ai hỏi mua thì bán hộ, còn P đi tuốt lúa, X cầm Heroine cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi tiếp tục xây nhà cho P. Đến khoảng 15 giờ, Đỗ Thành L, sinh năm 1986 trú tại bản Mới, xã S, thành phố L, tỉnh L cùng Lò Văn C, sinh năm 1974 trú tại tổ B, phường Đ, thành phố L, tỉnh L đến hỏi X mua ma túy, X nói mỗi gói 100.000 đồng, L lấy 100.000 đồng ra đưa cho C, C cũng lấy 100.000 đồng góp lại được 200.000 đồng đưa cho X (Xanh biết và nhìn thấy L, C góp tiền), X cầm tiền cất vào túi quần bên trái đang mặc rồi lấy 02 gói Heroine đưa cho L và C mỗi người 01 gói. Mua được H, L và C sử dụng ma túy luôn tại nhà P bằng hình thức hít. Hồi 15 giờ 10 phút, ngày 16/9/2023 khi L và C đang sử dụng ma túy thì bị tổ công tác phòng PC04 Công an tỉnh L phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, vật chứng thu giữ của Đỗ Thành L, Lò Văn C là 01 bật lửa gas màu đỏ, 01 bật lửa gas màu xanh, 02 mảnh nilon màu xanh, 02 mảnh giấy bạc đã đốt cháy. Căn cứ lời khai của L, C tổ công tác đã làm việc với Lò Văn X, X khai nhận vừa bán 02 gói Heroine cho L, C với giá 200.000 đồng, sau đó X đã tự nguyện giao nộp số tiền 200.000 đồng cho tổ công tác. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh L đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lò Văn X về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” và niêm phong vật chứng theo quy định.
Căn cứ lời khai của Lò Văn X, ngày 20/9/2023 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh L tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở của Lò Văn P, kết quả không thu giữ gì thêm.
Tại bản kết luận giám định số 1018/KL-KTHS ngày 18/9/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận: 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng có mã số hiệu lần lượt là CI 19114090 và SE 10975568 gửi giám định là tiền thật.
Bản cáo trạng số 02/CT-VKSTĐ, ngày 13/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Lò Văn X về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận và bản cáo trạng nêu trên.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn X phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn X từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo; Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bật lửa gas màu đỏ, 01 bật lửa gas màu xanh, 02 mảnh nilon màu xanh, 02 mảnh giấy bạc đã đốt cháy thu giữ của Đỗ Thành L, Lò Văn C. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 200.000 đồng. Bị cáo Lò Văn X phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Bị cáo Lò Văn X không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ.
Tại lời nói sau cùng bị cáo Lò Văn X xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Lò Văn X đà thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Vào khoảng 15 giờ, ngày 16/9/2023, tại bản p, xã B, huyện T, tỉnh L, Lò Văn X đã có hành vi bán trái phép 02 gói Heroine cho 02 người là Đỗ Thành L và Lò Văn c với giá 200.000 đồng, với mục đích để kiếm lời. Ngay sau khi X bán trái phép chất ma túy cho L và C thì bị tổ công tác Phòng PC04 Công an tỉnh L phát hiện, bắt giữ, vật chứng thu giữ của L, C là 01 bật lửa gas màu đỏ, 01 bật lửa gas màu xanh, 02 mảnh nilon màu xanh, 02 mảnh giấy bạc đã đốt cháy. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh L ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lò Văn X về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, vật chứng thu giữ của X là số tiền 200.000 đồng do X bán ma túy cho L và C mà có.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ điều kiện nhận biết ma túy là độc dược gây nghiện, làm tổn hại cho sức khỏe, nhân phẩm của con người và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Như vậy, đủ cơ sở để khẳng định hành vi của bị cáo Lò Văn X đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số; bố bị cáo là Lò Văn Ún tham gia dân công hỏa tuyến và được Bộ chứng nhận. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm tự do, thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Đối với 01 bật lửa gas màu đỏ, 01 bật lửa gas màu xanh, 02 mảnh nilon màu xanh, 02 mảnh giấy bạc đã đốt cháy thu giữ của Đỗ Thành L, Lò Văn C là công cụ dùng để thực hiện hành vi vi phạm và vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo Lò Văn X. Xét thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là tiền do bị cáo Lò Văn X thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà có nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.
[6] Những vấn đề liên quan:
Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Lò Văn X khai do Lò Văn P mua được của Vàng Văn P1, P đưa cho X bán hộ. Quá trình điều tra xác định tại bản Phiêng Khon, xã M, huyện T không có người nào tên Vàng Văn P1; quá trình lấy lời khai của P và đối chất, P đều không thừa nhận việc mua và đưa ma túy cho X bán, ngoài lời khai của X không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh. Do đó, không có căn cứ để xử lý Lò Văn P đồng phạm với X về tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với Đỗ Thành L, Lò Văn C đã có hành vi mua trái phép 02 gói Heroine của Lò Văn X để sử dụng, tuy nhiên L và C đều đã sử dụng hết. Do đó, hành vi của L, C là hành vi vi phạm hành chính. Công an tỉnh L đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L, C là đúng quy định.
Đối với Đỗ Thành L, Lò Văn c đã có hành vi sử dụng ma túy tại nhà của Lò Văn P. Quá trình điều tra xác định, P không biết việc L, C sử dụng ma túy tại nhà của mình và không giao quyền trông coi, quản lý nhà cho Lò Văn X. Do đó, Lò Văn P, Lò Văn X không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
[7] Án phí:
Bị cáo Lò Văn X phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn X 07 (Bảy) năm 06 (S) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 16/9/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về vật chứng của vụ án:
Tịch thu tiêu hủy: 01 bật lửa gas màu đỏ, 01 bật lửa gas màu xanh, 02 mảnh nilon màu xanh, 02 mảnh giấy bạc đã đốt cháy thu giữ của Đỗ Thành L, Lò Văn C.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 200.000 đồng.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 40 phút ngày 14/12/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Đ).
4. Về án phí: Bị cáo Lò Văn X phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đằng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST
Số hiệu: | 11/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về