TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 109/2019/HS-ST NGÀY 23/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 12 năm 2019, tại Văn phòng ấp H, xã A, huyện T, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 114/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:
Trần Hiệp H (B), sinh năm 1993, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện T, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh T (đã chết) và bà Nguyễn Thị B; có vợ và 01 con; tiền sự, tiền án: Không có; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2019 đến nay; bị cáo có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị Anh T, sinh năm 1998; địa chỉ: Ấp A, xã H, huyện T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1993; địa chỉ cư trú: Ấp R, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 12 giờ 00 phút, ngày 19/11/2019, Công an huyện Trảng Bàng bắt quả tang Trần Hiệp H đang bán trái phép 01 đoạn ống hút nhựa trong suốt được bịt kín bên trong có chứa tinh thể trong suốt (nghi là chất ma túy) cho Nguyễn Văn B với giá tiền 300.000 đồng tại khu vực ngã 3 đường An Lợi 3 thuộc ấp A, xã H, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Thu giữ của B 01 đoạn ống hút nhựa trong suốt được bịt kín bên trong có chứa tinh thể trong suốt vừa mua của H; thu giữ của H 06 đoạn ống hút nhựa trong suốt được bịt kín bên trong có chứa tinh thể trong suốt, tiền Việt Nam 300.000 đồng và một số vật chứng khác có liên quan.
Qua điều tra H khai nhận: Vào khoảng 15 giờ ngày 18/11/2019, Trần Hiệp H đến khu vực huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh gặp người đàn ông tên “U” mua 01 bịch chất ma túy với giá 1.000.000 đồng đem về nhà tại ấp A, xã H, huyện T, tỉnh Tây Ninh chứa trong 07 đoạn ống hút nhựa trong suốt. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 19/11/2019, Nguyễn Văn B điện thoại cho H hỏi mua chất ma túy với số tiền 300.000 đồng thì H đồng ý và hẹn B đến khu vực ngã 3 đường An Lợi 3 thuộc ấp An Lợi, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng để giao nhận chất ma túy. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 70L1-X đem theo 07 đoạn ống hút nhựa có chứa chất ma túy đến cách điểm hẹn 30 mét, H lấy 06 đoạn ống hút nhựa cất giấu dưới lề đường, còn 01 đoạn ống hút nhựa đem đến điểm hẹn bán cho B và nhận số tiền 300.000 đồng thì bị bắt quả tang.
Ngoài ra, từ ngày 12/11/2019 đến ngày 17/11/2019, H còn bán trái phép chất ma túy cho B 02 lần, mỗi lần bán 01 đoạn ống hút nhựa có chứa chất ma túy với số tiền 300.000 đồng. Lời khai của H phù hợp với lời khai của B.
Tại Kết luận giám định số 1721/KL-KTHS ngày 20/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận:
- Tinh thể trong suốt bên trong 01 đoạn ống hút nhựa trong suốt, được bịt kín (ký hiệu M1) là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0807 gam.
- Tinh thể trong suốt bên trong 06 đoạn ống hút nhựa trong suốt được bịt kín (ký hiệu M2) là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,8671 gam.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại Cáo trạng số 116/CT-VKSTrB ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng đã truy tố Trần Hiệp H (B) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Hiệp H (B) từ 07 (bảy) đến 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
- Do bị cáo không có tài sản nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo;
- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với những chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên toà, phù hợp với lời trình bày của những người tham gia tố tụng, đã có đủ cơ sở xác định: Từ ngày 12/11/2019 đến ngày 19/11/2019, Trần Hiệp H có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn B 03 lần. Trong đó ngày 19/11/2019, H đem theo 0,9478 gam Methamphetamine và bán cho B 0,0807 gam Methamphetamine thì bị bắt quả tang đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Do đó đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Hiệp H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo thực hiện nhiều lần (03 lần) mua bán ma túy nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Xuất phát từ mục đích tư lợi cá nhân, bị cáo đã bất chấp pháp luật làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Cụ thể, bị cáo biết việc sử dụng trái phép chất ma túy gây nguy hại cho sức khỏe con người, nhưng bị cáo vẫn cố ý mua chất ma túy về chia nhỏ để bán cho đối tượng nghiện ma túy sử dụng nhằm mục đích thu lợi bất chính đồng thời tiếp tay cho những đối tượng này đi vào con đường tệ nạn xã hội. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như:
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự thú những lần phạm tội khác. Nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Hiệp H, Nguyễn Văn B, Công an huyện Trảng Bàng đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp. Riêng người tên U đã bán ma túy cho H hiện không rõ họ tên, địa chỉ và chưa làm việc được, Cơ quan điều tra cần tiếp tục làm rõ để xử lý sau.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe mô tô biển số 70L1-X do chị Trần Thị Anh T là chủ sở hữu, bị cáo dùng làm phương tiện mua bán ma túy chị T không biết nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T là phù hợp. Tại phiên tòa, chị T không yêu cầu bị cáo bồi thường nên ghi nhận.
- Đối với số tiền 300.000 đồng, thu của bị cáo là tiền bị cáo thu lợi từ hành vi mua bán ma túy cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Titel, màu đen, số IMEI 1: 351980102065388, số IMEI 2: 3519801065396, bên trong có sim 03995X19, 0925X362 (đã qua sử dụng), thu của bị cáo là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để mua bán ma túy cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
- Đối với một gói niêm phong ghi vụ số 1721/KL-KTHS có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N và trợ lý giám định. Sau giám định, bên trong còn lại 0,7495 gam chất ma túy Methamphetamine là chất cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 bật lửa màu tím (đã qua sử dụng); 01 ống thủy tinh trong suốt dạng phễu; 02 bịch nylon trong suốt có viền màu đỏ, một đầu hở, bên trong rỗng;
02 bật lửa màu xanh (đã qua sử dụng); 03 đoạn ống hút nhựa trong suốt, một đầu bịt kín, một đầu hở, bên trong rỗng; một đoạn ống hút nhựa trong suốt hai đầu hở, bên trong rỗng là các công cụ dùng để sử dụng ma túy không có giá trị cần tịnh thu tiêu hủy.
- Đối với một chứng minh nhân dân mang tên Trần Hiệp H cần trả lại cho bị cáo.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hiệp H (B) 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 11 năm 2019.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1. Ghi nhận chị Trần Thị Anh T đã nhận lại xe mô tô biển số 70L1-X và không yêu cầu bị cáo bồi thường.
2.2. Tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:
Tiền Việt Nam 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.
Một điện thoại di động hiệu Titel, màu đen, số IMEI 1: 351980102065388, số IMEI 2: 3519801065396, bên trong có sim số 03995X019, 0925X362 (đã qua sử dụng).
2.3. Tuyên tịch thu, tiêu hủy: Một gói niêm phong ghi vụ số 1721/KL-KTHS có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn N và trợ lý giám định. Sau giám định, bên trong còn lại 0,7495 gam chất ma túy Methamphetamine. Một bật lửa màu tím (đã qua sử dụng); một ống thủy tinh trong suốt dạng phễu; hai bịch nylon trong suốt có viền màu đỏ, một đầu hở, bên trong rỗng; hai bật lửa màu xanh (đã qua sử dụng); ba đoạn ống hút nhựa trong suốt, một đầu bịt kín, một đầu hở, bên trong rỗng; một đoạn ống hút nhựa trong suốt hai đầu hở, bên trong rỗng 2.4. Tuyên trả cho bị cáo H (B): Một chứng minh nhân dân mang tên Trần Hiệp H.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Hiệp H (B) phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 109/2019/HS-ST
Số hiệu: | 109/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về