Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 107/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 107/2021/HS-ST NGÀY 11/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 104/2021/HSST ngày 08 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/QĐXX ngày 01 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Văn S, sinh năm 1960; ĐKNKTT: Số 44E N, phường N, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn 5/10; Con ông Lê Văn T, sinh năm 1924 (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1928 (đã chết); Vợ: không có; Con: có 01 con sinh năm 1993; Nhân thân: Tháng 11/1986 Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây xử 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích). Tháng 7/1989 Toàn án nhân dân thị xã Sơn Tây xử 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2021 hiện đang bị tạm giam tại Công an thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. Cầm Bá C, sinh năm 1996; ĐKNKTT: Thôn K, xã L, huyện T, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Con ông Cầm Thanh T, sinh năm 1960 và bà Cầm Thị T, sinh năm 1957; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2021 hiện đang tạm giam tại Công an thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, có mặt.

3. Lò Văn K, sinh năm 1995; ĐKNKTT: Bản S, xã K, huyện Đ, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Khơ mú; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá 5/12; Con ông Lò Văn M, sinh năm 1967 và bà Lò Thị S, sinh năm 1970; Vợ: Lò Thị N, sinh năm 2001; Con: Có 01 sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2021 hiện đang bị tạm giam tại Công an thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo Cầm Bá C, Lò Văn K: Ông Nguyễn Danh Sơn, trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Cầm Bá P, sinh năm 1990, vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn K, xã Luận K, huyện T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h 00 phút ngày 02/7/2021 Cầm Bá C, sinh năm 1996; HKTT: Thôn K, xã Luận K, huyện T, tỉnh T đi xe máy từ Hà Nội lên khu vực công nghệ cao Hòa Lạc, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội để chơi với bạn, tại đây C gặp Lò Văn K, sinh năm 1995; HKTT: Bản S, xã K, huyện Đ, tỉnh Đ. C và K đều nghiện chất ma túy nên K rủ C góp tiền mua ma túy để sử dụng chung, C đồng ý. Sau đó C đưa xe máy cho K điều khiển chở C đến đầu Ngõ 548 phố Chùa Thông, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây thì dừng lại. Lúc này C đưa cho K 500.000 đồng, K góp 100.000 đồng để mua ma túy. K cầm tiền rồi đi vào nhà Lê Văn S, sinh năm 1960; HKTT: 44E Ngô Quyền, phường Ngô Quyền, thị xã Sơn Tây; Chỗ ở: Ngõ 548 Chùa Thông, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây hỏi mua ma túy, S ra mở của thấy K là người quen nên đồng ý bán ma túy và bảo K đi xuống đầu ngõ đứng đợi. Một lúc sau S đi ra hỏi K “Mua mấy cái” K nói “Ông bán cho con 02 cái”. Sơn đưa cho K 02 gói ma túy được bọc bên ngoài bằng ni lông màu trắng, K cầm 02 gói ma túy bằng tay trái đồng thời đưa cho S số tiền 600.000 đồng, S cầm tiền của K đưa bằng tay phải. Đúng lúc đó tổ công tác Cảnh sát cơ động Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây kiểm tra phát hiện và bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 02 gói chất bột màu trắng được gói bằng giấy bạc bọc bên ngoài bằng ni lông màu trắng, thu tại mặt đường gần chân K đang đứng (K khai là ma túy vừa mua của S); Số tiền 600.000 đồng thu của Lê Văn S (S khai là tiền bán ma túy cho K); 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Novo màu vàng, BKS:

29X1-450.79 số máy: SP11-128653, số khung: RLCNSP1109Y128652 thu của C;

01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 màu vàng thu của C.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét tại chỗ ở của Lê Văn S không thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 5520/PC09 ngày 10/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: "Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc đều là ma tuý loại Heroine, tổng khối lượng 0,180 gam".

Tại Cơ quan điều tra Lê Văn S, Cấm Bá C, Lò Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 07/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây truy tố bị cáo Lê Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cầm Bá C, Lò Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo S, C, K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội cũng như khai nhận các vật chứng bị thu giữ trong quá trình bắt người phạm tội quả tang như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lê Văn S đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Văn S từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Bị cáo Cấm Bá C và Lò Văn K đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt Cấm Bá C, Lò Văn K mỗi bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về vật chứng tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong dán kín bên trong có chất ma túy; Sung công quỹ nhà nước số tiền 600.000đồng; Trả lại bị cáo C 01 điện thoại di động OPPO; Trả lại anh Cầm Bá P 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Novo màu vàng, BKS: 29X1-450.79; Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa đề nghị HĐXX giảm hình phạt cho bị cáo Cầm Bá C, Lò Văn K, các bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng 23 giờ 50 phút ngày 02/7/2021 Lê Văn S có hành vi bán trái phép 02 gúi ma tuý cho Lò Văn K và Cầm Bá C tại đầu ngõ 548 phố Chùa Thông, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây với giá 600.000đồng thì bị công an phát hiện bắt quả tang, vật chứng thu giữ gồm: 02 gói chất bột màu trắng, được gúi bằng giấy bạc bọc bên ngoài bằng ni lông màu trắng và số tiền 600.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Novo, BKS: 29X1-450.79; 01 điện thoại di động OPPO A83. Tại bản kết luận giám định số 5520/PC09 ngày 10/7/2021 của phòng kỹ thuật hình sự kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,180 gam.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo thấy phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được và kết luận giám định về ma túy cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Với hành vi chứng cứ trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận Lê Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Lò Văn K, Cầm Bá C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây truy tố các bị cáo về tội danh trên là có căn cứ, đúng người đúng tội.

[3]. Xét hành vi phạm tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, các hành vi trên đã vi phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội trên địa bàn. Nhà nước và cơ quan truyền thông có nhiều biện pháp tuyên truyền về hiểm họa, tác hại của ma túy đối với kinh tế, đối với cuộc sống cộng đồng và sức khỏe của con người, đồng thời là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác, nhưng các bị cáo không tuân thủ cố ý phạm tội. Bị cáo Lê Văn S có nhân thân xấu: Năm 1986 bị Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây xử 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích). Năm 1989 bị Toàn án nhân dân thị xã Sơn Tây xử 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích) nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân lại tiếp tục phạm tội, nên cần phải xét xử nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội. Đối với bị cáo Lò Văn K, Cầm Bá C đều còn trẻ có nhân thân tốt, nhưng không chịu lao động, tu dưỡng bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội mà lại đi vào con đường nghiện chất ma túy dẫn đến vi phạm pháp luật nên cần phải xét xử nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội và buộc các bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời để răn đe và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, nên giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có.

[4] Về hình phạt bổ sung, xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249, 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa chất ma túy và. Xét thấy vật chứng này trực tiếp đến vụ án, nên áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy; Sung công quỹ nhà nước số tiền 600.000đồng. Trả lại bị cáo C 01 điện thoại di động OPPO.

[6] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Novo màu vàng, BKS: 29X1- 450.79 thu giữ theo vụ án có giấy chứng nhận đăng ký tên chủ xe: Đặng Xuân Q, sinh năm 1983; Địa chỉ: P, Đ, huyện C, Hà Nội. Trong quá trình điều tra xác định tháng 12/2020 anh Q không có nhu cầu sử dụng đã bán xe máy trên cho người đàn ông tại khu Chùa Hà, Cầu Giấy, Hà Nội, khi bán xe hai bên chỉ viết giấy mua bán tay với nhau, nay anh không có ý kiến yêu cầu gì về chiếc xe máy đã bán trên theo BL97,98. Giấy đăng ký xe máy trên hiện anh Cầm Bá P, sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn K, xã Luận K, huyện T, tỉnh T (là anh trai bị cáo C) đang quản lý, tại BL195,196 anh P trình bày vào tháng 4/2021 anh có mua chiếc xe máy trên của một người đàn ông ở khu Chùa Hà, quận Cầu Giấy, Hà Nội khi mua bán hai bên chỉ viết giấy viết tay với nhau, giấy mua bán đó hiện anh đánh mất. Ngày 02/7/2021 anh cho em trai là Cầm Bá C mượn xe máy đi có việc, anh không biết việc C mượn xe máy để đi mua ma túy sử dụng, nay anh có nguyện vọng nhận lại xe máy trên làm phương tiện đi lại. Tại Thông báo kết quả tra cứu xe máy vật chứng ngày 16/7/2021của cơ quan điều tra công an thị xã Sơn Tây, kết quả tra cứu: Không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Căn cứ các tài liệu trên HĐXX xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Novo màu vàng, BKS: 29X1-450.79 là tài sản của anh Phương không liên quan đến vụ án, nên trả lại cho anh Cầm Bá Phương quản lý và sử dụng.

[7] Về án phí: Các bị cáo Lê Văn S, Lò Văn K, Cầm Bá C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố bị cáo: Lê Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo: Lò Văn K, Cầm Bá C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Xử phạt: Lê Văn S 30(Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2021.

Lò Văn K, Cầm Bá C mỗi bị cáo 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong dán kín (Bên trong chứa ma túy loại Heroine sau khi giám định) của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Lê Văn S, Lò Văn K, Cầm Bá C, người làm chứng Đỗ Văn Phương Châu, đ/c Dương Đức Thọ cán bộ công an phường Quang Trung và giám định viên Nguyễn Văn Hùng.

Tịch thu phát mại sung công số tiền 600.000đồng (Theo giấy ủy nhiệm chi lập ngày 11/10/2021 của Công an thị Sơn Tây chuyển tiền vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây tại kho bạc Nhà nướcthị xã Sơn Tây).

Trả lại bị cáo C: 01 điện thoại di động nhãn hiệu oppo màu vàng đồng, điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng, tình trạng máy không kiểm tra, mặt kính điện thoại có vết nứt vỡ.

Trả lại anh Cầm Bá Phương: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Novo màu vàng, BKS: 29X1- 450.79 số máy: 5P11-128653, số khung: RLCN5P1109Y128652 xe đã cũ, đã qua sử dụng, tình trạng máy của xe không kiểm tra.

4. Về án phí: Các bị cáo Lê Văn S, Lò Văn K, Cầm Bá C mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Sơn, K, C được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 107/2021/HS-ST

Số hiệu:107/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sơn Tây - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về