TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 101/2022/HS-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 103/2022/TLST- ST ngày 12 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2022/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 8 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Hà Văn M, tên gọi khác: Không, sinh năm 1997, tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Hà Văn Th (Đã chết), con bà Hà Thị B, bị cáo chưa có và con; Tiền sự, tiền án: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2022 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.
2. Mùi Văn B, tên gọi khác: Không, sinh năm 1996, tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La. Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Mùi Văn E, con bà Mùi Thị T, bị cáo chưa có vợ và con; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 28/10/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc, tỉnh Sơn La, xử phạt 12 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong bản án ngày 16/8/2015.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2022 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23 giờ 00 phút ngày 30/4/2022 tổ công tác Công an huyện Vân Hồ làm nhiệm vụ tại bản Ui, xã Mường Men, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, kiểm tra đối với Hà Văn M, đang điều khiển xe máy BKS 26F6 – xxx5. Quá trình kiểm tra phát hiện trong tay lái bên trái xe máy do M điều khiển, thu giữ: 01 ống kim loại hình trụ tròn, hai đầu có nắp đậy bằng nhựa, bên trong có 08 viên nén màu hồng và 04 gói nilon màu xanh bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Hà Văn M khai nhận, đó là đều là ma túy của Hà Văn M và Mùi Văn B. Ngoài ra thu giữ của Hà Văn M: 01 chiếc xe máy BKS 26F6 – xxx5, số khung SFRENA007708, số máy SFRNAxxx239; 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMISA, kèm theo thẻ sim số thuê bao 03578xxx69; 01 mũ bảo hiểm xe máy đã qua sử dụng.
Ngày 01/5/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Hồ, thi hành bắt người trong trường hợp khẩn cấp đối với Mùi Văn B, đồng thời tiến hành khám xét chỗ ở của Mùi Văn B. Quá trình khám xét thu giữ của Mùi Văn B: 01 túi giả da màu đen, đã qua sử dung; 01 mảnh nilon màu xanh; 02 chiếc điện thoại kèm theo sim.
Ngày 01/5/2022 tại Công huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La cân tịnh xác định khối lượng chất ma túy thu giữ của Hà Văn M kết quả như sau:
Số 08 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,84 gam, ký hiệu là M.
Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thứ nhất có khối lượng là 0,05 gam, ký hiệu là M1.
Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thứ hai có khối lượng là 0,06 gam, ký hiệu là M2.
Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thứ ba có khối lượng là 0,05 gam, ký hiệu là M3.
Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thứ tư có khối lượng là 0,07 gam, ký hiệu là M4.
Lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M, M1, M2, M3, M4 bàn giao cho Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại ma túy.
Tại kết luận giám định số 776 ngày 04/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy, loại Methamphetamine, khối luợng của mẫu gửi giám định 0,84 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 đến M4 đều là ma túy, loại Heroine, khối luợng của mẫu gửi giám định M1 = 0,05 gam, M2 = 0,06 gam, M3 = 0,05 gam, M4 = 0,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,84 gam loại Methamphetamine và 0,23 gam loại Heroine. Hoàn lại mẫu gửi giám định M = 0,33 gam.
Quá trình điều tra Hà Văn M và Mùi Văn B khai nhận: M và B cùng nhau thuê nhà trọ tại: Tiểu khu Nhà Nghỉ, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc, Châu tỉnh Sơn La. Khoảng 08 giờ ngày 30/4/202 Mùi Văn B một mình điều khiển xe máy BKS 26F6 – xxx5, từ phòng trọ đến bản Cóc, xã Đông Sang, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, để tìm mua ma túy sử dụng. Lúc này Hà Văn M gọi điện cho B hỏi đi đâu, B trả lời là đi mua ma túy về cùng với M sử dụng. Tại đường dân sinh thuộc bản Cóc, xã Đông Sang, B gặp một người đàn ông, khoản 40 tuổi, không quen biết. B mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine và 08 viên Hồng phiến với giá 400.000 đồng. Mua được ma túy B cất giấu vào túi xách, đi về phòng trọ. Khoảng 12 giờ cùng ngày B về đến phòng trọ, nói với M là mua được 01 gói Heroine và 08 viên Hồng phiến với giá 400.000 đồng. Lúc này M nói với B là có người muốn mua ma túy, (M không nói cho B biết, ai là người mua ma túy) B đồng ý. M và B thống nhất chia nhỏ gói Heroine thành 04 gói nhỏ bán với giá 100.000 đồng/gói và 100.000 đồng/ 01 viên Hồng Phiến.
Khoản 19 giờ cùng ngày Mường gọi điện đến số điện thoại 0357.803.069, của một người tên là X ỏ xã Mường Men, huyện Vân Hồ để thỏa thuận việc bán ma túy cho X, và M sẽ mang ma túy đến cho X. Sau đó M cất giấu 01 gói Herine và 08 viên Hồng phiến vào trong ống sắt hình trụ rồi cho vào trong tay lái xe máy. Khoảng 22 giờ cùng ngày M điều khiển xe máy từ phòng trọ đến bản Ui, xã Mường Men để bán ma túy cho X. Đến khoảng 23 giờ M đang đi trên đường dân sinh, bản Ui, xã Mường Men, thì bị tổ công tác Công an huyện Vân Hồ, kiểm tra, bắt quả tang.
Đối với người tên là X, là chủ thuê bao 0357.803.069 theo lời khai của Hà Văn M. Quá trình điều tra X không thừa nhận việc trao đổi, mua bán ma túy với Mùng. Việc X gọi điện cho M, chỉ nói chuyện bạn bè.
Cáo trạng số 78/CT-VKS ngày 11/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, truy tố Hà Văn M và Mùi Văn B về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 của BLHS.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Hà Văn M và Mùi Văn B phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với Hà Văn M: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn M từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với Mùi Văn B: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Mùi Văn B từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng điểm b, c khoản 1 điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu + 01 ống kim loại hình trụ tròn, hai đầu có nắp đậy bằng nhựa; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 phong bì gửi giám định đã bóc mở + 0,33 gam Methamphetamine; 01 chiếc túi giả da màu đen đã qua sử dụng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 mũ bảo hiểm xe máy đã qua sử dụng; 03 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà văn M, Mùi Văn B và Hà Văn X.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe máy BKS 26F6 – xxx5, số khung SFRENA007708, số máy SFRNAxxx239; 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMISA, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 03578xxx69; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 0868.xxx.xxx; 01 điện thoại NOKIA màu đen, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 0396.xxx.901.
Các bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa các bị cáo xin Hội đồng xét xử miễn án phí. Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Các bị cáo không có tranh luận gì, không có ý kiến bổ sung.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Ngày 30/4/2022 Hà Văn M và Mùi Văn B bị phát hiện bắt quả tang có hành vi cất giấu, tàng trữ trái phép 0,84 gam Methamphetamine và 0,23 gam Heroine, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Căn cứ quy định tại Điều 4, Chương II Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất lượng ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự. Tổng số ma túy các bị cáo tàng trữ là 1,07 gam. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
[2]. Tính chất hành vi của các bị cáo: Các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tàng trữ trái phép 1,07 gam Methamphetamine và Heroine, mục đích tàng trữ để bán kiếm lời. Hành vi của cáo bị cáo đã xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội nhất là tội phạm về ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm dăn đe, giáo dục phòng ngừa chung.
[3] Về vị trí vai trò của các bị cáo: Bị cáo Mùi Văn B là người chủ động đi mua ma túy, bị cáo Hà Văn M là người chủ động đi bán ma túy. Các bị cáo cùng chia ra thành nhiều gói nhỏ. Do vậy cáo bị cáo là đồng phạm trong vụ án và vai trò của các bị cáo là ngang nhau.
[4] Xét nhân thân các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân bị cáo: Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đều là đối tượng nghiện chất ma túy, bị cáo Mùi Văn B đã bị xét xử về tội: Trộm cắp tài sản. Các bị cáo nhận thức biết rõ tác hại của ma tuý là nhà nước cấm, coi thường pháp luật, cố tình phạm tội nghiêm trọng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai B, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Hà Văn M tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết năng nặng: Không có.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị, không có thu nhập, không đủ điều kiện và khả năng thi hành, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[6]. Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên tham gia tố tụng tuân theo và chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7]. Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu + 01 ống kim loại hình trụ tròn, hai đầu có nắp đậy bằng nhựa; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 phong bì gửi giám định đã bóc mở + 0,33 gam Methamphetamine; 01 chiếc túi giả da màu đen đã qua sử dụng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 mũ bảo hiểm xe máy đã qua sử dụng; 03 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà văn M, Mùi Văn B và Hà Văn X, là những vật cấm lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng cần được tuyên tịch thu tiêu huỷ.
Đối 01 chiếc xe máy BKS 26F6 – xxx5, số khung SFRENA007708, số máy SFRNAxxx239; 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMISA, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 03578xxx69; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 0868.xxx.xxx; 01 điện thoại NOKIA màu đen, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 0396.xxx.901. là tài sản hợp pháp của các bị cáo, các bị cáo dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, do vậy tịch thu sung ngân sách Nhà Nước.
[8]. Về vấn đề liên quan khác trong vụ án:
Đối với nguồn gốc số ma túy, bị cáo Mùi Văn B khai được một người đàn ông bị cáo không quen biết, không biết họ tên địa chỉ, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ, để điều tra xử lý.
Đối với Hà Văn X, theo lời khai của bị cáo Hà Văn M là người đã hẹn mua ma túy của M. Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lờ khai của X, và tiến hành đối chất giữa X và M. Hà Văn X không thừa nhận có trao đổi với M về việc mua ma túy với M. X và M là bạn với nhau, X có gọi điện thoại cho M để nói chuyện, không trao đổi để mua ma túy của M. Ngoài lờ khai duy nhất của Hà Văn M không có chứng cứ nào khác Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ, để điều tra xử lý đối với Hà Văn X.
[9]. Về án phí: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTV Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án do vậy miễn án phí cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn M phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Hà Văn M 34 (Ba mươi tư) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/5/2022.
Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Mùi Văn B, phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Mùi Văn B 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/5/2022. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu + 01 ống kim loại hình trụ tròn, hai đầu có nắp đậy bằng nhựa; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 phong bì gửi giám định đã bóc mở + 0,33 gam Methamphetamine; 01 chiếc túi giả da màu đen đã qua sử dụng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 mũ bảo hiểm xe máy đã qua sử dụng; 03 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Hà văn M, Mùi Văn B và Hà Văn X.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 chiếc xe máy BKS 26F6 – xxx5, số khung SFRENA007708, số máy SFRNAxxx239; 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMISA, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 03578xxx69; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 0868.xxx.xxx; 01 điện thoại NOKIA màu đen, kèm theo thẻ sim số thuê bao số 0396.xxx.901.
Theo biên bản giao nhận vật chứng số 100 ngày 12/8/2022 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vân Hồ.
3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTV Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí cho các bị cáo
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 101/2022/HS-ST
Số hiệu: | 101/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về