Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐM HÀ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 23/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoàn phiên toà số 01/2023 HSST-QĐ ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:

1, Ty Văn T; sinh ngày 04/5/2004 tại huyện Đ, tỉnh Q; Nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện Đ, tỉnh Q; Nghề nghiệp: công nhân Công ty TNHH M1, huyện H; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ty Văn S (đã chết) và bà: Phạm Mai H; Vợ con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: chưa có.

Nhân thân: năm 2021 bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 6 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 17/9/2021 đã chấp hành xong bản án.

Bị tạm giữ ngày 28/12/2022. Hiện đang tạm giam; Có mặt tại phiên toà.

2, Bùi Văn T1; sinh ngày 26/6/2004 tại huyện Đ, tỉnh Q; Nơi cư trú: thôn B, xã T, huyện Đ, tỉnh Q; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Văn T2 và bà: Nguyễn Thị T3; Vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không có.

Bị tạm giữ ngày 28/12/2022. Hiện đang tạm giam; có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

+ Anh Bế Văn C, sinh năm 1997, nơi cư trú: thôn B, xã H, huyện T, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên toà, không có lý do.

+ Chị Phạm Thị H1, sinh năm 1986, nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên toà. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn B, sinh 1967, nơi cư trú: Phố L, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Qua các tài liệu cỏ trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma tuý, ngày 16/12/2022 Bế Văn C (sinh năm 1997, trú tại thôn B, xã H, huyện T) đã nhắn tin và gọi điện cho Ty Văn T hỏi mua 1.000.000 đồng ma tuý, loại “cỏ mỹ”. Mặc dù không có ma túy bán, nhưng T vẫn nhận lời C vì trước đó biết Bùi Văn T1 (bạn T) có bán loại ma túy này nên T nảy sinh ý định nhờ T1 mua để bán lại cho C kiếm lời. T liền gọi điện cho T1 nhờ đặt mua 600.000 đồng ma túy “cỏ mỹ”. T1 dùng tài khoản mạng xã hội Facebook của mình liên lạc với người có tài khoản Facebook “Trần Công M”, đặt mua 600.000 đồng ma tuý “cỏ mỹ” và cho địa chỉ nhận hàng tại Bưu điện Đ. số điện thoại 0762.389.xxx của T để T nhận hàng qua dịch vụ chuyển phát nhanh. Đến ngày 19/12/2022, T nhận được điện thoại nhận hàng chuyển phát nhanh, biết đó là ma túy mình đã đặt mua từ trước nên bảo C đến khu vực phía trước siêu thị A, thuộc phố H, thị trấn Đ để lấy ma túy. Đến khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, T đến điểm hẹn gặp và nhận của C 500.000 đồng tiền đặt cọc rồi bảo C đợi để đi lấy ma túy. Sau đó T điều khiển xe mô tô (không biển kiểm soát) của mình đến khu vực thôn T, xã Q gặp chị Phạm Thị H1 là nhân viên dịch vụ chuyển phát nhanh nhận gói hàng (là 01 túi nilon bên ngoài ghi “Trà đặc sản Thái Nguyên”) kích thước (20,5 x 10,3 )cm bên trong có chứa ma túy loại “cỏ mỹ”, rồi quay lại đưa cho C và nhận nốt số tiền 500.000 đồng còn lại. Sau khi mua được ma túy, C mang về phòng trọ của mình cất giấu sử dụng dần.

Đến ngày 20/12/2022, C lại nhắn tin (qua Z) cho T hỏi mua 02 lạng ma túy loại “cỏ mỹ” để sử dụng. T đồng ý rồi gặp T1, cả hai bàn với nhau đặt mua ma tuý về bán kiếm lời. Với cách thức mua như lần trước, T1 là người đặt mua theo địa chỉ cũ 02 lạng ma tuý “cỏ mỹ” với giá 1.600.000 đồng và bảo T báo giá cho người mua là 2.600.000 đồng. Vì muốn kiếm lời riêng, T báo giá cho C là 2.900.000 đồng. Đến ngày 28/12/2022, T nhận được tin có hàng chuyển phát nhanh chuyển đến, biết ma túy đặt hàng đã về, T lại hẹn C đến địa điểm cũ khu vực phía trước siêu thị A1, để giao nhận. Khoảng 19 giờ 40 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô của mình đến điểm hẹn gặp và nhận trước của C số tiền 2.000.000 đồng và bảo C đứng đợi. Sau đó. T điều khiển xe đến đón T1 cùng đi gặp chị H1 ở thôn T. xã Q, huyện Đ để nhận hàng là 01 hộp bìa các tông màu xanh kích thước (25 x 15)cm, Tân bóc vứt hộp giấy ở đó, lấy ra bên trong 01 túi nhựa màu vàng (dạng túi zip) kích thước (14,7 x 19,9)cm, bên trong chứa ma tuý “cỏ mỹ” rồi quay lại điểm hẹn gặp C. Tại đây, khi T1 vừa giao túi ma túy cho C thì bị Công an huyện Đ phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ của C 01 túi nhựa màu vàng kích thước (14,7 x 19,9)cm, 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 và OPPO A12 và số tiền 900.000 đồng; thu giữ của T 350.000 đồng, 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus và S1 A30 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda wave α không gắn biển kiểm soát.

Cơ quan điều tra kiểm tra phòng trọ của Bế Văn C ở phố C, thị trấn Đ thu giữ trong túi đựng quần áo 01 túi nilon màu vàng kích thước (20,5 x 10,3)cm, ngoài bao bì túi ghi “đặc sản Thái Nguyên”, miệng túi đã được mở, bên trong có thực khô vật màu xanh-nâu.

Khám xét chỗ ở T tại thôn T, xã Q và chỗ ở của Bùi Văn T1 tại thôn B, xã T, Cơ quan điều tra thu giữ của T 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 biển kiểm soát 14M1-xxxxx: thu giữ của T1 01 điện thoại iphone 6 đã qua sử dụng; thu giữ tại khu vực thôn T, xã Q 01 vỏ hộp bìa cát tông màu xanh, kích thước (25 x 15)cm (hộp đựng túi ma túy mà T, T1 đã nhận ngày 28/12/2022).

Chị Phạm Thị H1 đã tự nguyện giao nộp số tiền 1.640.000đ cho Cơ quan điều tra (trong đó 1.637.000 đồng là số tiền T trả cho chị H1 mua ma túy tối ngày 28/12/2022).

Tại bản Kết luận giám định số 9147/KL-KTHS ngày 04 01/2023 của V - Bộ C1 kết luận: tìm thấy chất ma túy ADB-BUTINACA trong các mẫu thực vật khô màu xanh - nâu gửi giám định. Khối lượng mẫu thực vật khô thu tại phòng trọ và khi bắt quả tang của Bế Văn C lần lượt là 4,410 gam và 29,083 gam. Tổng khối lượng là 33,493g.

Cáo trạng sổ 03/CT-VKSĐH ngày 27/4/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố các bị cáo Ty Văn T và Bùi Văn T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Bế Văn C, chị Phạm Thị H1 tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên toà ngày hôm nay.

Tại phiên tòa các bị cáo Ty Văn T và Bùi Văn T1 đều thừa nhận hành vi phạm tội mình đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố đối với các bị cáo. Các bị cáo không thắc mắc gì về nội dung bản Cáo trạng, không khiếu nại thắc mắc gì về kết luận giám định, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Ty Văn T và Bùi Văn T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

- Áp dụng điểm b khoán 2 Điều 251; Điều 17: Điều 58: điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Ty Văn T từ 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng đến 8 (tám) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 28/12/2022.

- Áp dụng điềm b khoản 2 Điều 251; Điều 17; Điều 58: điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Bùi Văn T1 từ 7 (bày) năm đến 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 28/12/2022.

Về vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc hộp bìa cát tông màu xanh kích thước (25x15)cm; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 009756 cấp ngày 01/7/2020 của xe mô tô BKS 14M1-xxxxx; 01 gỏi phong bì còn niêm phong số 9147/C09(TT2), trên mép dán có hình dấu của V; 02 sim điện thoại lắp trong các máy Nokia 105 và S2 A30.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số sêri: 354275385252986; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu hồng, số máy NKU92KH/A, số sêri: FTHRVOFWGRX5; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30, màu đen, số máy SM-A305F/DS, số seri: R58M35WKY2D, số Imei 1: 3548741065674799, số Imei 2: 3548751066747956; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6. mặt lưng màu hồng, số Imei: 3520650ỐS00S397; số tiền 2.887.000 đồng được gửi giữ tại kho bạc nhà nước huyện Đ theo biên bản bàn giao, tiếp nhận tài sản để bảo quản số 01/BBBQ-KBNNĐH: 01 chiếc xe máy màu đen số khung: RLHJA3917LY109088, số máy: JA39E1446930 và 01 biển kiểm soát mô tô số 14M1-xxxxx.

- Trả lại cho Phạm Thị H1 số tiền 3.000 đồng trong số tiền 1.640.000 đồng chị đã nộp cho cơ quan điều tra. Số tiền trên đang gửi giữ tại Kho bạc Nhà nước huyện Đ theo biên bản bàn giao, tiếp nhận tài sản để bảo quản số 01 BBBQ- KBNNĐH.

Truy thu số tiền thu lời bất chính là 1.013.000 đồng, trong đó truy thu của T1 số tiền là 1.000.000 đồng, còn đối với 13.000 đồng các bị cáo T, T1 có trách nhiệm liên đới nộp lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bế Văn C vắng mặt tại phiên toà không có lý do, chị Phạm Thị H1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; người làm chứng anh Nguyễn Văn B vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ các Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về chứng cứ xác định có tội:

Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng K1 Công an tỉnh Q. cùng các tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 19/12/2022, tại khu vực phía trước siêu thị A, thuộc phố H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Q, Ty Văn T, Bùi Văn T1 có hành vi bán trái phép chất ma túy loại ADB-BUTINACA với giá 1.000.000 đồng cho Bế Văn C. Tiếp đến khoảng 20 giờ 40 phút ngày 28/12/2022, cũng tại địa điểm trên, khi Ty Văn T và Bùi Văn T1 tiếp tục bán 01 túi thực vật khô màu xanh nâu khối lượng 29,083g có chứa chất ma tuý ADB-BUTINACA với giá 2.900.000 đồng cho Bế Văn C, thì bị Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Ty Văn T và Bùi Văn T1 là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an ninh xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến sức khỏe về tinh thần, thể chất và tài sản của người sử dụng, gây lo lắng buồn phiền cho những người thân trong gia đình mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và loại tội phạm khác. Các bị cáo T, T1 là người trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ ma túy là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, mua bán trao đổi, sử dụng nhưng vì mục đích tư lợi muốn có tiền để phục vụ của bản thân mà các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do các bị cáo T, T1 bán ma túy cho C 02 lần, do vậy hành vi của các bị cáo phái chịu tình tiết định khung hình phạt “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo bản Cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát. Do đó, Hội đồng xét xử cỏ đủ cơ sở kết luận Ty Văn T và Bùi Văn T1 phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a,...........

b, Phạm tội 02 lần trở lên.”

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết xem xét giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội, khách thể xâm phạm, lỗi và nhân thân các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo việc cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo và đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[5] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thấy:

Trong vụ án này các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn. Bị cáo T là người nảy sinh ý định bán ma tuý để kiếm lời, trực tiếp giao dịch với người mua, nhận ma túy từ dịch vụ chuyển hàng nên bị cáo Tân giữ vai trò đầu vụ. Ngoài ra bị cáo T là người có nhân thân xấu, bị cáo vừa được xoá án tích nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội. Nên cần áp dụng hình phạt nặng hơn để giáo dục, răn đe bị cáo. Bị cáo T1 sau khi được T rủ bán ma túy đã tiếp nhận ý chí và lên mạng tìm đặt mua ma tuý để T bán nên T1 giữ vai trò sau bị cáo T.

[6] Về vật chứng:

- Số tiền 3.000 đồng trong số tiền 1.640.000 đồng thu của chị Phạm Thị H1 là tiền của chị H1 không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho chị H1.

- 01 chiếc hộp bìa cát tông màu xanh kích thước (25x15)cm; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 009756 cấp ngày 01/7/2020 của xe mô tô BKS 14M 1-xxxxx; 02 sim điện thoại lắp trong các máy Nokia 105 và S2 A30 là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 gói phong bì còn niêm phong số 9147/C09(TT2), trên mép dán có hình dấu của V bên trong chứa chất cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số sêri: 354275385252986: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu hồng, số máy NKU92KH A, số seri: FTHRVOFVVGRX5: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30, màu đen, số máy SM-A305F/DS, số seri: R5SM35WKY2D, số Imei 1: 354874106674799, số Imei 2: 354875106674796: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, mặt lưng màu hồng, số Imei: 352065068008397; 01 chiếc xe máy màu đen số khung: RLHJA3917LY109088, số máy: JA39E1446930 là công cụ phương tiện phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Số tiền 350.000 đồng thu của Ty Văn T là số tiền T có được do mua bán ma túy; số tiền 900.000 đồng thu của Bế Văn C là số tiền C dùng để mua ma túy; số tiền 1.637.000 đồng trong số tiền 1.640.000 đồng chị H1 nộp cho cơ quan điều tra là số tiền T có được do mua bán ma túy; vì vậy cần tịch thu toàn bộ số tiền nói trên để sung quỹ nhà nước.

- 01 biển kiểm soát mô tô số 14M1-xxxxx là vật đi cùng chiếc xe máy thu của T nên cẩn tịch thu cùng chiếc xe máy.

[7] Số tiền 1.000.000 đồng Tân có được do mua bán ma tuý mà có T đã tiêu hết nên cần truy thu tiền trên để sung quỹ nhà nước. Số tiền 13.000 đồng T và T1 đã tiêu là số tiền 2 bị cáo có được do mua bán ma tuý nên cần truy thu sung quỹ nhà nước.

[8] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố: Ty Văn T và Bùi Văn T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51: Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ty Văn T và Bùi Văn T1.

Xử phạt: Ty Văn T 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2022.

Xử phạt: Bùi Văn T1 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2022.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 chiếc hộp bìa cát tông màu xanh kích thước (25x15 )cm; 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 009756 cấp ngày 01/7/2020 của xe mô tô BKS 14M1-xxxxx; 02 sim điện thoại lắp trong các máy Nokia 105 và S2 A30: 01 gói phong bì còn niêm phong số 9147/C09(TT2), trên mép dán có hình dấu của V.

- Trả lại cho chị Phạm Thị H1 số tiền 3.000 đồng (ba nghìn đồng) trong số tiền 1.640.000 đồng chị H1 đã nộp cho cơ quan điều tra.

- Tịch thu, sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số sêri: 354275385252986: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu hồng, số máy NKU92KH A, số seri: FTHRVOFVVGRX5: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30, màu đen, số máy SM-A305F/DS, số seri: R5SM35WKY2D, số Imei 1: 354874106674799, số Imei 2: 354875106674796: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, mặt lưng màu hồng, số Imei: 352065068008397; 01 chiếc xe máy màu đen số khung: RLHJA3917LY109088, số máy: JA39E1446930 và 01 biển kiểm soát 14M1-xxxxx: số tiền 350.000 đồng thu của Ty Văn T; số tiền 900.000 đồng thu của Bế Văn C; số tiền 1.637.000 đồng trong số tiền 1.640.000 đồng chị H1 nộp cho cơ quan điều tra.

Truy thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.013.000 đồng, trong đó truy thu của Ty Văn T số tiền 1.000.000 đồng, còn số tiền 13.000 đồng hai bị cáo Ty Văn T và Bùi Văn T1 có trách nhiệm liên đới nộp lại.

(Toàn bộ vật chứng tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/4/2023 giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ và biên bản bàn giao, tiếp nhận tài sản để bảo quản số 01 BBBQ-KBNN ĐH ngày 10/01/2023 giữa Công an huyện Đ và Kho bạc Nhà nước huyện Đ).

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt các bị cáo. Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về