TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 14/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 01 năm 2022 tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 203/2021/HSST ngày 22/12/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 206/2021/QĐXXST-HS ngày 31/12/2021 đối với bị cáo:
Võ Ngọc H , sinh ngày 20/7/1978 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú (HKTT) và chỗ ở: Thôn M , xã TP, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; nghề nghiệp: Không; Đảng, đoàn thể: Không; con ông Võ Văn T (đã chết) và bà Trần Thị H; có vợ là Đỗ Thị G và 02 con; Quá trình hoạt động của bản thân: Không. Tiền sự: Không;
Tiền án: có 01 tiền án, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 138/2019/HSST ngày 15/11/2019, Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Võ Ngọc H 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Ngày 17/02/2021, chấp hành xong hình phạt tù. Án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ, đã thi hành xong vào tháng 01 năm 2020.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2021 đến nay, đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Văn L , sinh năm 1996; Địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt) Người làm chứng: Anh Phùng Văn D (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h15’ ngày 25/10/2021, Võ Ngọc H mang theo trong người 03 gói ma tuý đá một mình đi bộ đến khu vực khu tập thể gia đình Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng thiết giáp (Trường 500) thuộc tổ dân phố (TDP) Minh Quyết, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc với mục đích tìm người mua để bán lại kiếm tiền lời. Tại đây, H gặp Lê Văn L , sinh năm 1996, HKTT ở thôn Dịch Đồng, xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc và Phùng Văn Dũng, sinh năm 1990, HKTT ở TDP Mậu Lâm, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên. L hỏi H có ma tuý đá không, bán cho L 01 gói giá 500.000đ, H đồng ý bán và bảo L đưa tiền trước. Sau đó L lấy 500.000đ đưa cho H , H cầm tiền L đưa bằng tay trái, tay phải đang chuẩn bị lấy một gói ma tuý đá trong túi quần nhưng chưa kịp đưa cho L thì bị Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: Thu tại túi bên phải phía trước của chiếc quần H đang mặc 03 gói nilon nhỏ màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng, H khai nhận là ma tuý đá (Methamphetamine), được niêm phong theo quy định vào phong bì thư ký hiệu A1; thu tại lòng bản tay trái của H số tiền 500.000đ; thu giữ của H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung đã cũ, 01 chiếc ví giả da màu đen đã cũ bên trong có 1.000.000đ.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc có Quyết định trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định đối với 03 gói nilon nhỏ bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá niêm phong trong bì thư ký hiệu A1. Tại Kết luận giám định số 2791/KLGĐ ngày 29/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,7836g (Không phảy bảy tám ba sáu gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine” .
Tại Cơ quan điều tra, Võ Ngọc H đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại Cáo trạng số 05/CT-VKSNDVY ngày 20/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố Võ Ngọc H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS).
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai trong giai đoạn điều tra và thừa nhận bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.
Đại diện Viện kiểm sát công bố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS để nghị xử phạt Võ Ngọc H từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/10/2021; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung; về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 của BLHS; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,6949 gam ma túy Methamphetamine và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định; trả lại H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, số tiền 1.000.000đ và 01 ví giả da màu đen nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ và buộc bị cáo chịu án phí theo quy định.
Bị cáo Võ Ngọc H không bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm về hòa nhập cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Lê Văn L , người làm chứng anh Phùng Văn Dũng: Trong hồ sơ vụ án đã có đủ lời khai đảm bảo cho việc giải quyết xét xử xét xử vụ án nên căn cứ khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người nói trên.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án, cũng như Kết luận giám định của cơ quan chuyên môn. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 25/10/2021, tại Khu tập thể gia đình của Trường Trung cấp Kỹ thuật tăng thiết giáp thuộc TDP Minh Quyết, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Võ Ngọc H đang có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy đá loại Methamphetamine cho Lê Văn L với giá 500.000đ thì bị Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 03 gói giấy nilon nhỏ bên trong chứa 0,7836 gam tinh thể dạng đá màu trắng, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine cùng những vật chứng có liên quan khác.
Hành vi nêu trên của H đã đủ yếu tố cấu thành về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Như vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, làm ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu với 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị Tòa án thành phố Vĩnh Yên kết án 02 năm tù tại Bản án số 138/2019/HSST ngày 15/11/2019 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội thể hiện là người coi thường pháp luật. Bị cáo có tiền án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội cố ý nên bị coi là “tái phạm” và phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
[6] Về hình phạt chính, Hội đồng xét xử xem xét dựa trên tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng mức hình phạt tù tại trại giam như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[7] Về hình phạt bổ sung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm vấn công khai tại phiên tòa, xác định được bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, gia đình khó khăn, bản thân bị cáo không có thu nhập ổn định và tài sản có giá trị đảm bảo cho thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền như quy định khoản 5 Điều 251 của BLHS.
[8] Về xử lý vật chứng vụ án:
Đối với số tiền 500.000đ thu giữ của H , là tiền bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và số tiền 1.000.000đ cùng 01 ví giả da thu của H , đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo và không liên quan đến tội phạm do đó cần trả lại nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với 0,6949 gam mẫu ma túy và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định, là đối tượng của tội phạm, lưu hành trái phép nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Về các đối tượng có liên quan trong vụ án và nguồn gốc ma túy:
Nguồn gốc ma túy trong vụ án, H khai nhận mua được của một người đàn ông khoảng 55 tuổi, dáng người hơi đậm, cao khoảng 1,7 mét. Tuy nhiên thông tin về người này chưa đủ để làm rõ ngay, cơ quan điều tra cần tiếp tục xác minh để có căn cứ xử lý sau.
Đối với Lê Văn L do chưa nhận được ma túy nên không bị xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà chỉ bị đưa vào diện theo dõi, quản lý tại địa phương là phù hợp.
Đối với Phùng Văn D là người đi cùng với Lê Văn L nhưng không liên quan đến hành vi bán trái phép chất ma tuý của H , cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
[10] Về án phí: Bị Võ Ngọc H bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố Võ Ngọc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt Võ Ngọc H 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/10/2021.
Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,6949 gam mẫu ma túy Methamphetamine và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định; trả lại cho Võ Ngọc H tài sản gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) và 01 ví giả da màu đen nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ. Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận đề ngày 10/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc Võ Ngọc H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án, thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST
Số hiệu: | 07/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về