Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 03 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đối với các bị cáo:

1. Vương Huy H, sinh ngày 29 tháng 03 năm 1991 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã Q, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Văn D (Vương Tiến D) và bà Lương Thị T1 ;Vợ, con: Không có; tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án số 30/2013/HSST ngày 26/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng đã xử phạt Vương Huy H 10 năm tù về Tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo đã thi hành xong số tiền 200.000đ án phí, chấp hành xong án phạt tù từ ngày 06/02/2020, đến nay chưa được xóa án tích theo Điều 70 Bộ luật hình sự; tiền sự: Không có; nhân thân: xác định bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 12/10/2021 cho đến nay, có mặt.

2. Nông Văn T, sinh ngày 12 tháng 12 năm 1997 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã Q, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Trung V1 (đã chết) và bà Nông Thị Kiều D1; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: tại Bản án số 06/2018/HSST ngày 18/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng đã xử phạt Nông Văn T 01 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, đến nay đã được xóa án tích; tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 39/QĐ-XPHC số 04/5/2019 của đội Cảnh sát Kinh tế - Ma Túy Công an huyện Tràng Định xử phạt Nông Văn T hình T2 Cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, xác định bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định từ ngày 12 tháng 10 năm 2021 cho đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà H Thị B, sinh năm 1952, có mặt;

2. Ông Vương Văn D, sinh năm 1967, có mặt;

3. Anh Ngọc Văn T2, sinh năm 1999, có mặt;

Cùng cư trú tại địa chỉ: Thôn N, xã Q, huyện T, tỉnh Lạng Sơn.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Trí H1, sinh năm 1990, vắng mặt;

2. Anh Đinh Văn V, sinh năm 1995, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 11/10/2021, Vương Huy H sang chơi nhà Nông Văn T, ở cùng thôn. T rủ H cùng nhau góp tiền đi mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời thì H đồng ý rồi mỗi người góp 500.000 đồng, sau đó cả hai cùng nhau đi xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE biển kiểm soát 12T1-205.01 của anh Ngọc Văn T2 đến khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc thuộc địa phận H, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Tại đây, T và H gặp một người đàn ông tên T3 khoảng 40 tuổi (không rõ họ, tuổi, địa chỉ) mua 01 gói ma túy Heroine dạng cục giá 1.000.000 đồng rồi đi xe mô tô quay về nhà. Trên đường về, T và H đã sẻ một ít ma túy Heroine mua được ra cùng nhau sử dụng, số ma túy còn lại, T đem về nhà chia được 15 gói nhỏ sau đó giấu 01 gói ma túy dưới gối trên giường ngủ của mình, còn 14 gói T cất giấu trong vỏ bao thuốc lá THĂNG LONG màu vàng rồi cùng với H bán cho những người sau:

- Khoảng 08 giờ ngày 12/10/2021, tại cổng làng M (N1 cũ), xã T1, huyện T, H và T bán cho Đinh Văn V 01 gói ma túy Heroine giá 185.000 đồng.

- Khoảng 09 giờ ngày 12/10/2021, tại thôn N2, xã Đ, huyện T, H và T bán cho Hoàng Văn H2 01 gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng.

- Sau khi bán ma túy cho Hoàng Văn H3, H và T tiếp tục đi đến thôn M (N1 cũ), xã T1, huyện T, tỉnh Lạng Sơn bán 01 gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng cho Nguyễn Trí H1 Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, T và H tiếp tục đi bán ma túy Heroine cho Nguyễn Trí H1 thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Tràng Định và Công an xã Tri Phương phát hiện, bắt quả tang và thu giữ: 11 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine được đựng trong bao thuốc lá nhãn hiệu THĂNG LONG kẹp tại giá sắt giữa xe mô tô BKS 12T1-205.01; 01 vỏ bao thuốc lá THĂNG LONG màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, của Nông Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL màu đen, của Vương Huy H; 01 bật lửa ga màu đỏ thu giữ của Nông Văn T; số tiền 1.149.000 đồng thu giữ trong túi quần bên phải Nông Văn T đang mặc; 01 xe mô tô biển kiểm soát 12T1-205.01 Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nông Văn T và Vương Huy H. Kết quả không thu giữ được gì liên quan đến việc phạm tội tại nơi ở của Vương Huy H; tại nhà của Nông Văn T đã phát hiện và thu giữ được: 01 gói giấy bạc màu vàng ánh kim chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine dưới gối trên giường ngủ của Nông Văn T, 01 quyển vở và 01 lưỡi dao lam có chữ CROMA.

Tại Kết luận giám định số 329/KL-PC09 ngày 14/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: 11 gói chất bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Nông Văn T và Vương Huy H đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,445 gam (đã trừ bì); 01 gói chất bột màu trắng dạng cục thu giữ khi khám xét nơi ở của Nông Văn T là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,102 gam (đã trừ bì).

Tại Kết luận giám định số 453/KLGĐ-PC09 ngày 22/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền thu giữ khi bắt quả tang Nông Văn T và Vương Huy H là tiền Việt Nam thật.

Tại phiên tòa hôm nay Nông Văn T khai nhận gói ma túy Heroine bị Cơ quan điều tra thu giữ tại nhà khi khám xét, bị cáo tàng trữ để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện khi có nhu cầu. Trước đó, T còn được mua ma túy Heroine với một người đàn ông (khoảng 40 tuổi, không rõ họ tên, địa chỉ) tại khu vực thôn N3, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn về sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện gồm:

- Bán cho Nguyễn Trí H1 02 lần nữa tại thôn M (N1 cũ), xã T, huyện T, mỗi lần bán 01 gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng, trong đó lần 01 vào khoảng 08 giờ ngày 07/10/2021, lần 02 vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 09/10/2021.

- Bán cho Đinh Văn V 01 gói ma túy Heroine giá 160.000 đồng vào khoảng 15 giờ ngày 09/10/2021, tại thôn H, xã Q, huyện T.

Bị cáo Nông Văn T và Vương Huy H còn thừa nhận: Sáng ngày 10/10/2021, T gọi điện rủ H đi mua ma túy Heroine thì H đồng ý rồi xin bố là ông Vương Văn D số tiền 300.000 đồng nói dối là để đi tìm việc làm. Có được tiền, H sang nhà T rồi mỗi người góp 250.000 đồng được 500.000 đồng rồi cùng nhau đi xe mô tô Cub Biển kiểm soát 12TA-001.38 của gia đình T ra thị trấn T để xe ở quán nước và mượn xe mô tô Biển kiểm soát 12T1-205.01 của Ngọc Văn T2 đi đến khu vực H thuộc xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mua với người đàn ông tên T2 nói trên 01 gói ma túy Heroine giá 500.000 đồng sau đó quay về. Trên đường về, T cùng H sẻ một ít ma túy ra sử dụng, phần còn lại chia đôi mỗi người một nửa rồi đi về nhà. Đối với phần ma túy Heroine được chia, bản thân T đã sử dụng hết; còn số ma túy Heroine của H, H đã sẻ một ít ra để sử dụng, số ma túy còn lại khoảng 07 giờ ngày 11/10/2021, H chia thành 02 gói nhỏ và mượn T xe mô tô Biển kiểm soát 12TA-001.38 đem ra cổng thôn M (N1 cũ), xã T bán cho Nguyễn Trí H1 với giá 400.000 đồng.

Cáo trạng số: 06/CT-VKSTĐ ngày 10 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Vương Huy H về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, q khoản 2 Điều 251; Nông Văn T về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, người chứng kiến, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét khẩn cấp, tang vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là Ngọc Văn T2 cho Nông Văn T mượn xe 12T 1-205.01; bà H Thị B là người quản lý hợp pháp chiếc xe mô tô Cub BKS 12TA-001.38 không biết việc H và T sử dụng xe để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Ông Vương Văn D được cho Vương Huy H 300.000 đồng nhưng không biết H sử dụng số tiền trên để mua ma túy; bà Hoàng Thị B đưa cho Nông Văn T 500.000 đồng để đi mua sơn, nhưng Nông Văn T chưa mua được, hiện số tiền trên đang bị tạm giữ, bà đề nghị được xin lại số tiền trên.

Vật chứng đã xử lý: Ngày 08/11/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định đã ra quyết định xử lý vật chứng số 42/QĐ trả lại 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12T1-205.01 cho anh Ngọc Văn T2 là chủ sở hữu.

Các vật chứng còn đang tạm giữ: 12 gói nhỏ chứa ma túy Heroine (còn lại sau giám định); 01 vỏ bao thuốc lá THĂNG LONG màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, số IMEI: 359002098616629 của Nông Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASTEL, màu đen, số IMEI: 352068097273040 của Vương Huy H; 01 bật lửa ga màu đỏ thu giữ của Nông Văn T; số tiền 1.149.000 đồng thu giữ của Nông Văn T; 01 quyển vở và 01 lưỡi dao lam có chữ CROMA của Nông Văn T.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng b, q khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vương Huy H từ 08 (tám) năm đến 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy;

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 50, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nông Văn T từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy: 0,364 gam chất ma túy Heroine đựng trong phong bị niêm phong; 0,071 gam chất ma túy Heroine đựng trong phong bị niêm phong; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 quyển vở và 01 lưỡi dao lam có chữ Croma. Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen cũ, đã qua sử dụng lắp sim thuê bao 0986346613; 01 điện thoại di động Mastell màu đen cũ đã qua sử dụng kèm sim thuê bao 037220218; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 649.000 đồng số tiền Nông Văn T đang bị tạm giữ do mua bán ma túy mà có; truy thu 469.000 đồng đối với Nông Văn T và 400.000 đồng đối với Vương Huy H do bán ma túy mà có; trả cho bà Hoàng Thị B 500.000 đồng.

Tại phần tranh luận các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ai có ý kiến gì tranh luận.

Lời nói sau cùng của các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo yên tâm cải tạo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của anh Nguyễn Trí H1, anh Đinh Văn V tại phiên tòa: Hội đồng xét xử thấy rằng những người nêu trên đã có lời khai được lưu trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292, 293 Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận: Ngày 11/10/2021, các bị cáo Vương Huy H và Nông Văn T đã cùng nhau góp tiền đi mua ma túy Heroine về sử dụng và cùng bán trái phép 04 lần cho các đối tượng nghiện để kiếm lời, cụ thể: Bán cho Đinh Văn V 01 lần; bán cho Hoàng Văn H2 01 lần; bán cho Nguyễn Trí H1 02 lần, trong đó lần 02 ngày 12/10/2021 khi đang trên đường đi bán ma túy cho H1 thì H và T bị Công an huyện Tràng Định bắt quả tang, thu giữ 0,445 gam chất ma túy Heroine và các tang vật khác. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nông Văn T thu giữ 0,102 gam ma túy Heroine của Nông Văn T với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Trước đó, cũng trong tháng 10/2021, bị cáo Nông Văn T còn tự mình bán trái phép chất ma túy Heroine 03 lần, gồm: Bán cho Nguyễn Trí H1 02 lần, bán cho Đinh Văn V 01 lần; bị cáo Vương Huy H còn tự mình bán trái phép chất ma túy Heroine cho Nguyễn Trí H1 01 lần. Xác định bị cáo Vương Huy H có 01 tiền án về tội rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, lần phạm tội này thuộc trường hợp Tái phạm nguy hiểm. Như vậy Vương Huy H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại các điểm b, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nông Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[4] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành. Tuy nhiên, trong vụ án này, bị cáo Vương Huy H có tình tiết tăng nặng định khung do vậy phải chịu mức hình phạt cao hơn Nông Văn T.

[5] Về tính chất, hậu quả mức độ của hành vi phạm tội: Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức được hành vi của mình nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng nguy cơ các tệ nạn xã hội như: Lừa đảo, trộm cắp, giết người, mại dâm...; ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc; làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội; tăng chi phí ngân sách Nhà nước cho các hoạt động ngăn ngừa, khắc phục, giải quyết các hậu quả do ma túy đem lại. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt ngoài việc xem xét tính chất, mức độ hành vi của việc phạm tội còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt mới tương xứng với hành vi mà bị cáo gây ra.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo Vương Huy H có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy (chưa được xóa án tích); bị cáo Nông Văn T có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích) và 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (đã chấp hành xong). Xác định các bị cáo là người có nhân thân xấu [7] Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người không có tài sản, là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định. Do vậy không phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[10] Đối với người đàn ông tên T2 bán ma túy cho Nông Văn T và Vương Huy H tại xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo T tại thôn N3, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn do không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

[11] Đối với Nguyễn Trí H1 và Đinh Văn V có hành vi mua ma túy với Vương Huy H và Nông Văn T để sử dụng. Xét thấy hành vi này không cấu thành tội phạm, Công an huyện Tràng Định đã tiến hành xử lý vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo.

[12] Đối với Hoàng Văn H2 theo lời khai của Nông Văn T và Vương Huy H được bán ma túy cho Hưng. Qua điều tra xác định H2 là đối tượng nghiện ma túy, không có mặt tại địa phương, không biết đang ở đâu nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ và xử lý.

[13] Đối với Ngọc Văn T2 cho Nông Văn T mượn xe 12T1-205.01. Qua điều tra xác định T2 không biết việc T và H sử dụng xe vào mục đích bất hợp pháp nên không xem xét xử lý.

[14] Đối với ông Vương Văn D cho Vương Huy H số tiền 300.000 đồng. Qua điều tra xác định ông D cho tiền H để đi xin việc, không biết H sử dụng số tiền trên để đi mua trái phép chất ma túy nên không xem xét xử lý [15] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,364 gam chất ma túy Heroine đựng trong phong bị niêm phong; 0,071 gam chất ma túy Heroine đựng trong phong bị niêm phong 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 quyển vở và 01 lưỡi dao lam có chữ Croma là công cụ thực hiện phạm tội và là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen cũ, đã qua sử dụng lắp sim thuê bao 0986346613 thu giữ của Nông Văn T; 01 điện thoại di động Mastell màu đen cũ đã qua sử dụng kèm sim thuê bao 037220218 thu giữ của Vương Huy H là tang vật sử dụng vào việc phạm tội do đó cần phải tịch hóa giá nộp ngân sách nhà nước. Đối với số tiền 1.149.000 đồng thu giữ của Nông Văn T, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 649.000 đồng do mua bán ma túy mà có, trong đó 585.000 đồng là tiền do Nông Văn T và Vương Huy H bán ma túy ngày 12/10/2021 mà có, 64.000 đồng là tiền bán ma túy của Nông Văn T bán ma túy trước ngày 12/10/2021 mà có; trả lại cho bà H Thị B số tiền 500.000 đồng.

[16] Những gì khác với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử đều không được chấp nhận.

[17] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát về mức hình phạt là quá nghiêm khắc đối với các bị cáo, chưa tương xứng với hành vi của các bị cáo nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[18] Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định cho các bị cáo đi cải tạo tập trung để các bị cáo nhận thức được hành vi của mình, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[19] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo khoản 2 Điều 135, khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.

[20] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ b, q khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với Vương Huy H;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 50, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với Nông Văn T;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vương Huy H và Nông Văn T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Vương Huy H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng từ thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2021 2.2. Xử phạt bị cáo Nông Văn T 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 10 năm 2021.

4. Về vật chứng:

4.1. Tịch thu tiêu hủy: 0,364 gam chất ma túy Heroine đựng trong phong bị niêm phong; 0,071 gam chất ma túy Heroine đựng trong phong bị niêm phong; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 quyển vở và 01 lưỡi dao lam có chữ Croma.

4.2. Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen cũ, đã qua sử dụng lắp sim thuê bao 0986346613; 01 điện thoại di động Mastell màu đen cũ đã qua sử dụng kèm sim thuê bao 037220218; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 649.000 đồng (sáu trăm bốn mươi chín nghìn đồng) đựng trong phong bì niêm phong bên trong có 1.149.000 đồng.

4.3. Trả cho bà Hoàng Thị B 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng chẵn) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án đựng trong phong bì niêm phong bên trong có 1.149.000 đồng.

(Vật chứng nêu trên được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 02 năm 2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn).

5. Biện pháp tư pháp: Truy thu 496.000 đồng đối với Nông Văn T; truy thu 400.000 đồng Vương Huy H.

6. Về án phí: Buộc các bị cáo Vương Huy H và Nông Văn T mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

7. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về