TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại trụ S UBND xã Mường Luân, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2021/HSST ngày 19 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lầu A S (tên gọi khác: Không); sinh ngày 04/6/1998 tại tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản Tào Xa B, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lầu Chù C, sinh năm 1974 và bà Vàng Thị S; sinh năm 1975. Năm 2016 sống chung như vợ chồng với chị Sùng Thị B, sinh năm 2000 và có 03 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 07/9/2021 đến ngày 10/9/2021, tạm giam từ ngày 10/9/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 20 giờ 20 phút ngày 07/9/2021, tại quán Internet L H, thuộc tổ 05, thị trấn Điện Biên Đ, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên, tổ công tác Công an huyện Điện Biên Đông, phát hiện bắt quả tang Lầu A S thu giữ trong túi quần sau, bên phải đang mặc 01 gói nilon màu xanh bên trong có 164 viên Methamphetamine, khối lượng 15,46 gam và số tiền 140.000đ. Lầu A S khai nhận nguồn gốc 164 viên Methamphetamine bị thu giữ khi bắt người phạm tội quả tang là do khoảng 21 giờ ngày 07/9/2021 tại quán Internet L H, Hạng A C đưa cho Lầu A S 01 gói nilon màu xanh bên trong có các viên Methamphetamine để bán cho người khác với giá 28.000đ/01 viên. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, S đã bán 05 viên Methamphetamine cho một người đàn ông dân tộc Thái, S không quen biết với giá 140.000đ. Số tiền có được từ việc bán ma túy và số Methamphetamine còn lại S cho vào túi quần sau bên phải đang mặc trên người đề cất giấu thì bị Công an huyện Điện Biên Đông thu giữ khi bắt người phạm tội quả tang.
Vật chứng vụ án thu giữ gồm: 01 túi inlon màu xanh bên trong có 164 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu “WY” nghi ma túy loại: Methamphetamine; 07 tờ tiền mệnh giá 20.000đ.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng hồi 23 giờ 30 phút ngày 07/9/2021 xác định 164 viên Methamphetamine, có tổng khối lượng là 15,46 gam. Trích 05 viên có khối lượng 0,47 gam gửi giám định. Không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định.
Tại bản kết luận giám định số: 1053/GĐ-PC09 ngày 14/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lầu A S gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine tổng khối lượng 15,46 gam nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, mục IIC, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018.
Bản cáo trạng số: 72/CT-VKS-ĐBĐ ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lầu A S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lầu A S cả về tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng Điểm i Khoản 2 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lầu A S từ 10 năm đến 11 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
+ Tịch thu, tiêu hủy 14,99 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau giám định theo quy định của pháp luật;
+ Trả lại cho bị cáo số tiền 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng) Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì thêm với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ S nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Xét về hành vi của bị cáo Lầu A S thấy rằng: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố. Cụ thể: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay Lầu A S khai nhận nguồn gốc 164 viên Methamphetamine bị Công an thu giữ là do khoảng 21 giờ ngày 07/9/2021 tại quán Internet L H, Hạng A C đưa cho Lầu A S 01 gói nilon màu xanh bên trong có các viên Methamphetamine để bán cho người khác với giá 28.000đ/01 viên. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, S đã bán 05 viên Methamphetamine cho một người đàn ông dân tộc Thái, S không quen biết với giá 140.000đ. Số tiền có được từ việc bán ma túy và số Methamphetamine còn lại S cho vào túi quần sau bên phải đang mặc trên người để cất giấu thì bị Công an huyện Điện Biên Đông bắt.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước, làm mất ổn định trật tự trị an, an toàn xã hội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ S kết luận hành vi của bị cáo Lầu A S đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại Điểm i Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự quy định:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
“i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.
Như vậy, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên Đông truy tố bị cáo về tội danh và điều luật là có căn cứ cần chấp nhận.
[2] Về tính chất, mức độ phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo sinh ra trong một gia đình thuần nông, được bố mẹ nuôi dưỡng cho đi học đến lớp 12/12, sau đó ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình, năm 2016 chung sống như vợ chồng với chị Sùng Thị B và có 03 người con. Bị cáo là một người cha có tuổi đời đang còn rất trẻ, sinh năm 1998, lẽ ra bị cáo phải biết tu chí làm ăn lương thiện để làm chỗ dựa cho các con mới phải, tuy nhiên, bị cáo lại không làm được như vậy, mà lười lao động, hám lợi, muốn kiếm tiền bằng cách phi pháp. Từ đó, dấn thân vào con đường phạm tội để đến ngày 07/9/2021 bị bắt quả tang về hành vi mua bán trái phép chất ma túy và phải chịu sự trừng phạt của pháp luật là điều tất yếu. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục đồng thời để bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.
[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy nghề nghiệp bị cáo làm nương, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, đông con. Nên không có điều kiện để thi hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Về vật chứng vụ án: Gồm 15,46 gam Methamphetimine, đã trích đi giám định hết 0,47 gam, còn lại 14,99 gam là chất thuộc Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, cần tịch thu và tiêu hủy toàn bộ theo Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với số tiền 140.000đ thu của bị cáo, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận là tiền bị cáo bán 05 viên Methamphetamine cho một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 07/9/2021. Do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Điện Biên Đông không đủ căn cứ để xác minh. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy ngoài lời khai của bị cáo không có chứng cứ nào chứng minh bị cáo đã bán ma túy cho người đàn ông dân tộc Thái, cho nên cần trả lại số tiền 140.000đ cho bị cáo theo Điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[6] Các vấn đề khác:
+ Đối với Hạng A C, theo lời khai của bị cáo ngày 07/9/2021, Cấu đã đưa 01 gói Methamphetamine cho bị cáo để bán cho người khác. Cơ quan CSĐT Công an huyện Điện Biên Đông đã tiến hành xác minh tại bản Tào Xa A, xã Phì Nhừ, huyện Điện Biên Đông. Kết quả có 01 người tên là Hạ A C. Tuy nhiên, hiện tại Hạ A C vắng mặt khỏi nơi cư trú, do vậy không đề cập xử lý trong vụ án này. HĐXX không đặt vấn đề xem xét.
+ Đối với người đàn ông dân tộc Thái, theo lời khai của bị cáo đây là người đã mua 05 viên Methamphertamine, với giá 140.000đ của bị cáo vào ngày 07/9/2021. Do bị cáo không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ, do vậy Cơ quan CSĐT không đủ căn cứ để xử lý, nên không đề cập xử lý trong vụ án này. HĐXX không đặt vấn đề xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, đang cư trú tại bản Tào Xa B, xã Phì Nhừ, huyện Điện Biên Đông là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, HĐXX áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử miễn toàn bộ tiền án phí Hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm i Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2; Điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ vào Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lầu A S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”:
Xử phạt bị cáo Lầu A S 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 07/9/2021).
2. Về vật chứng vụ án:
+ Tịch thu tiêu hủy 14,99 gam Methamphetamine (đã trừ giám định).
+ Trả lại cho bị cáo số tiền 140.000 VNĐ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng).
Vật chứng đã được niêm phong và bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên Đông theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 19/10/2021 giữa cơ quan Công an huyện Điện Biên Đông và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Điện Biên Đông.
3. Về án phí: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lầu A S.
Án xử công khai, kết thúc cùng ngày. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 16/11/2021)./
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 05/2021/HS-ST
Số hiệu: | 05/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên Đông - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về