Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 19/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2021/TLST-HS ngày 05/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-HS ngày 09/11/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đình K, sinh ngày 18/01/1974, tại huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản H, xã S, huyện Y, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giơi tinh : Nam; tôn giáo: Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Nguyễn Đình N (đã chết), con bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ là Nguyễn Minh H, bị cáo có 02 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2021 đến nay. Có mặt.

2. Lê Thị H, sinh ngày: 07/5/1981, tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu 14, thị trấn M, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn) 10/12; dân tộc: Kinh; giơi tinh: Nữ; tôn giáo: Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Lê Văn H, con bà Nguyễn Thị M; bị cáo có chồng là Nguyễn Văn H ( Hiện đang đi chấp hành án); bị cáo có 02 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2021 đến nay. Có mặt.

3. Vũ Tiến H, sinh ngày: 08/8/1980, tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu 6, thị trấn M, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giơi tinh : Nam; tôn giáo :

Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Vũ Tiến D, con bà Nguyễn Thị L; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu Quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện tỉnh Sơn La.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2021 đến nay. Có mặt.

Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Vũ Tiến D, sinh năm 1956.

Nơi cư trú: Tiểu khu 6, thị trấn M, huyện M, tỉnh S, Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ ngày 16/7/2021, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu 14, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu tiến hành kiểm tra đối với Nguyễn Đình K đang đi bộ trên đường Quốc lộ 6. Qua kiểm tra phát hiện K đang cất giấu trong túi quần bên phải 01 gói nilon màu xanh bên trong có 02 gói nilon màu xanh đều chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine và 01 mảnh giấy bạc. K khai nhận đó là gói ma túy của K vừa mua của Vũ Tiến H và Lê Thị H mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân nghiện chất ma túy. Căn cứ hành vi vi phạm của Nguyễn Đình K, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng, tạm giữ của K 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO và dẫn giải Nguyễn Đình K về trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra, xử lý.

Ngày 16/7/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định khối lượng 2 gói đựng cục chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Đình K được 0,31 gam. Lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu K1, K2.

Tại Kết luận giám định số 1306 ngày 20/7/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu K1, K2 đều là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là K1=0,18 gam và K2=0,13 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,31 gam; loại Heroine”.

Mở rộng điều tra, ngày 17/7/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu đã ra lệnh giữ và lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Thị H và Vũ Tiến H. Quá trình bắt giữ đã thu giữ của Vũ Tiến H 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA – SH 150i, màu trắng; BKS 17B9 – 487.68. Khám xét nơi ở của của Lê Thị H thu giữ số tiền 1.500.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung kèm 02 sim.

Quá trình điều tra, ban đầu Nguyễn Đình K, Lê Thị H và Vũ Tiến H khai nhận như sau:

Bản thân Nguyễn Đình K và Vũ Tiến H đều nghiện chất ma túy và không quen biết nhau còn Lê Thị H không nghiện chất ma túy và có quan hệ quen biết H.

Lê Thị H có chồng nghiện chất ma túy và đang phải đi cải tạo nên nảy sinh ý định mua ma túy để bán kiểm lời. Khoảng giữa tháng 12 năm 2020, H mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng, sau khi mua được Heroine, H cất giấu vào ống nhựa màu đen để ở khe cửa nhà, mục đích để ai hỏi mua thì bán.

Ngày 16/7/2021, K đi xe Buýt từ nhà đến thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến tiểu khu 14, thị trấn Mộc Châu, do K không biết chỗ mua ma túy nên điện thoại cho một người tên Hưng (ở huyện Yên Châu có biết K từ trước), K hỏi Hưng biết chỗ nào bán ma túy không thì Hưng bảo với K gọi điện cho H để hỏi mua ma túy và cho K hai số điện thoại của H là 082483955 và 0372227776, sau đó K gọi điện cho Lê Thị H hỏi mua 1.500.000 đồng Heroine, lúc đó H và H đang ăn cơm tại nhà H, H bảo K không được vào nhà H cứ đứng đợi ở khu vực quảng trường thuộc tiểu khu 14, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu sẽ có người mang ma túy ra và trả tiền cho người đó. Sau khi thỏa thuận mua bán ma túy với K, H lấy trong ống nhựa màu đen ở khe cửa 01 gói nilon màu xanh bên trong có 02 gói nilon màu xanh đều chứa Heroine đưa cho H, bảo Vũ Tiến H mang ra khu vực quảng trường đưa cho K và nhận 1.500.000 đồng mang về cho H, H lấy chiếc xe máy BKS: 17B9- 487.68 của H đi đến quảng trường gặp K, H đưa cho K 02 gói Heroine và K đưa cho H 1.500.000 đồng. Sau đó, H chở K đi ra gần khu vực khách sạn Sao Xanh thuộc tiểu khu 14, thị trấn Mộc Châu để K đón xe khách đi về Yên Châu. K đi đến bụi cây gần đó mở gói ma túy ra, lấy một ít Heroine và chiếc bật lửa gas để sử dụng ma túy. H nhặt mảnh giấy bạc ở gần đó rồi cùng K sử dụng ma túy.

Sau khi sử dụng xong, số ma túy còn lại, K gói lại cùng mảnh giấy bạc của H rồi cất giấu vào trong túi quần bên phải và đứng đợi xe khách để đi về thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu đến kiểm tra, phát hiện thu giữ 02 gói Heroine K đang cất giấu trong người.

Còn đối với H sau khi đã đưa ma túy cho K, H đi về nhà H đưa cho H xem số tiền và để số tiền 1.500.000 đồng ở hộp sắt gần phòng ngủ.

Quá trình điều tra Nguyễn Đình K và Vũ Tiến H thay đổi lời khai khai nhận như sau.

Sau khi H giao ma túy cho K, K nhờ H chở K đến cổng khách sạn Sao Xanh để K đi xe khách về huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. H đồng ý và chở K đi đến cổng khách sạn Sao Xanh rồi đi về. Trong lúc chờ xe, K nhìn thấy một mảnh giấy bạc nên nhặt lên và gói vào gói ma túy, cất giấu ở túi quần bên phải rồi đi ra đường để đón xe khách đi về. Khi K đang đứng chờ xe thì gặp tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, bắt quả tang. K và H không cùng nhau sử dụng ma túy tại tiểu khu 14, thị trấn Mộc Châu.

Ngày 21/8/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành xác định hiện trường nơi H và K sử dụng chất ma túy là bãi đất trống thuộc tiểu khu 14, thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu, cách tường rào khách sạn Sao Xanh 1,7m, cách mép cống 4,8m về hướng Tây, cách cột điện Lộ 173, 176 ABC là 6,3m. Tiến hành truy tìm vật chứng là chiếc bật lửa ga màu vàng và mảnh giấy bạc do K và H sử dụng chất ma túy nhưng không thu giữ được.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA – SH 150i, màu trắng; BKS 17B9 – 487.68, số khung 251XGY046893, số máy KF 26E0046764 là tài sản của Vũ Tiến H mua tại thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình của một người đàn ông không quen biết do H tìm kiếm thông tin mua trên mạng vào khoảng 04/2020, khi mua bán không làm giấy tờ với giá 60.000.000 đồng, xe có giấy đăng ký mang tên Đỗ Đức Trọng, địa chỉ: Quang Trung, Vũ Đông, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Ngày 22/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu tiến hành tra cứu phương tiện xác định: Chiếc BKS 17B9- 487.68 không xác định được thông tin; tra cứu số khung RLHKF251XGY046893, không xác định được biển kiểm soát; tra cứu số máy KF26E0046764 là chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA – SH 150i màu sơn trắng đen; BKS 60F2 - 890.71; số khung RLHKF2519XGY046698 chủ xe là anh Châu Thanh Tân, trú quán: 89/6 KP4 Bình Đa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Ngày 16/8/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu quyết định ủy thác điều tra cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xác minh chủ sở hữu giấy tờ xe mang tên Đỗ Đức Tr, kết quả xác minh, xác định không có ai tên Đỗ Đức Tr như giấy đăng ký xe.

Ngày 21/9/2021, Cơ quan cảnh sát Công an huyện Mộc Châu đã trưng cầu phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định giấy đăng ký xe mang tên Đỗ Đức Trọng. Tại Kết luận giám định số 1562 ngày 23/9/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011784 mang tên Đỗ Đức Tr, địa chỉ: Quang Trung, Vũ Đông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đăng ký ngày 02/7/2018 do Trung tá Lê Thị Tố N – Phó Trưởng phòng CSGT Công an tỉnh Thái Bình ký là Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả”.

Đối với hành vi sử dụng chất ma túy của Nguyễn Đình K và Vũ Tiến H. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ xác định, không truy tìm, thu giữ được vật chứng là mảnh giấy và và chiếc bật lửa gas. Do đó không có căn cứ để xử lý Nguyễn Đình K và Vũ Tiến H về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Bản c áo trạng số 186/CT-VKS ngày 04/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố các bị can như sau.

Truy tố bị can Lê Thị H và Vũ Tiến H về tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Truy tố bị can Nguyễn Đình K về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Thị H và Vũ Tiến H phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” và Nguyễn Đình K về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Thị H từ 24 tháng đến 27 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Tiến H từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình K từ 18 tháng đến 21 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

4. Căn cứ điểm a, b, c khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án đề nghị:

Tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Nguyễn Đình K, bắt ngày 16/7/2021, bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong ban đầu, ba mảnh ni lon màu xanh, mảnh giấy bạc màu trắng.

01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Lê Thị H, sn 1981, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vũ Tiến H, kết quả Dương tính, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Nguyễn Đình K, kết quả Dương tính, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011784 mang tên Đỗ Đức Trọng và BKS 17B9- 487.68.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.500.000đ (Một triệu, năm trăm nghìn) đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung thu giữ của Lê Thị H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo của Nguyễn Đình K và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Hon Da – SH 150i, màu trắng số khung 251XGY046893, số máy KF 26E0046764 của Vũ Tiến H.

5. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa:

Các bị cáo nhất trí nội dung cáo trạng đã truy tố cũng như nội dung bản luận tội, các bị cáo không có tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

Người có Quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho gia đình chiếc xe máy Hon Da nhãn hiệu SH.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Tại phiên toà, các bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng đã thu giữ, biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiên và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ căn cứ khẳng định:

Ngày 16/7/2021, Lê Thị H đã có hành vi mua và cất giấu 0,31 gam Heroine sau đó thỏa thuận bán cho Nguyễn Đình K với giá 1.500.000 đồng để kiếm lời, Lê Thị H đưa ma túy cho Vũ Tiến H đến giao cho Nguyễn Đình K và nhận tiền mua bán ma túy, khi K trên đường mang Heroine về để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của Nguyễn Đình K đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Hành vi của Lê Thị H và Vũ Tiến H đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Do đó cần phải cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[3] Trong vụ án có đồng phạm, phân hóa vai trò đồng phạm thấy rằng bị cáo H giữ vai trò chính đó là bị cáo H đã có sự tính toán chuẩn bị mua ma túy cất giấu từ trước, khi có người nghiện hỏi mua bị cáo sẽ bán kiếm lời. Bị cáo H là đồng phạm với vai trò là người giúp sức, cần áp dụng Điều 58 để quyết định hình phạt với từng bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo K đã khai ra hành vi phạm tội của bản thân và hành vi phạm tội của bị cáo H, bị cáo H đã tự khai báo ra hành vi phạm tội của bản thân và hành vi phạm tội của bị cáo H, bị cáo K, nên bị cáo K và H được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo K và bị cáo H có bố là người có công với cách mạng nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét vai trò đồng phạm của bị cáo H, đánh giá nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến việc bị cáo H phạm tội thấy rằng bị cáo H phạm tội là do nể nang vì bị cáo có tình cảm với bị cáo H, khi bị cáo H bảo bị cáo H mang ma túy đi đưa cho bị cáo K, bị cáo tự nguyện nhất trí và không yêu cầu được hưởng lợi gì từ khoản tiền mà bị cáo H bán ma túy cho bị cáo K cũng như không yêu cầu bị cáo K cho được cùng sử dụng số ma túy đó với bị cáo K, việc bị cáo H mang giao ma túy cho bị cáo K không có sự bàn bạc hoặc thống nhất từ trước giữa bị cáo H với bị cáo H mà sau khi bị cáo H nhận được điện thoại của bị cáo K hỏi mua ma túy, sau khi nhất trí bán cũng như thống nhất giá cả thì bị cáo H lấy ma túy đưa cho bị cáo H đi giao cho bị cáo K và cầm tiền về cho bị cáo H, sau khi bị bắt bị cáo H đã khai ra hành vi phạm tội của mình và hành vi phạm tội của bị cáo H. Do vậy căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng cũng như nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội xét thấy việc áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt quy định cũng là phù hợp và cũng đủ sức răn đe giáo dục bị cáo H.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự các bị cáo không có.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra , xác minh và xét hỏi tại phiên toà thấy các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đối số tiền 1.500.000đ thu giữ của bị cáo H là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo K và bị cáo H, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định điện thoại các bị cáo đã dùng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Nguyễn Đình K, bắt ngày 16/7/2021, bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong ban đầu, ba mảnh ni lon màu xanh, mảnh giấy bạc màu trắng, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Lê Thị H, sn 1981, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vũ Tiến H, kết quả Dương tính, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Nguyễn Đình K, kết quả Dương tính, xác định là vật không có gía trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Hon Da SH 150i của bị cáo H đang bị tạm giữ, ngày 15/11/2021 ông Vũ Tiến D (bố bị cáo H) có đơn đề nghị trình bày được xin lại chiếc xe lý do chiếc xe máy là của vợ chồng ông trực tiếp đưa tiền cho bị cáo H đi mua, còn việc bị cáo H tìm xe và mua với ai thì ông không biết, bị cáo H hiện chưa có vợ, con và vẫn đang sống với vợ chồng ông. Quá trình điều tra bị cáo H khai là xe của bị cáo là không đúng vì bản thân bị cáo đang sống phụ thuộc vào gia đình ông, mọi sinh hoạt liên quan đến tiền đều phải xin vợ chồng ông. Bị cáo H cũng khai nhận chiếc xe máy SH bị thu giữ là xe bị cáo tìm, mua trên mạng còn việc thanh toán là bằng tiền của ông D. Tại phiên Tòa bị cáo H cũng khai nhận chiếc xe máy không phải là mua bằng tiền của bị cáo mà là tiền của bố, mẹ bị cáo, còn bị cáo là người đi tìm mua.

Xét thấy quá trình điều tra đã xác định chiếc xe máy bị cáo H mua lại không phải là xe do phạm tội mà có nên xét yêu cầu của vợ chồng ông D bà Lanh xin lại chiếc xe máy là có cơ sở cần chấp nhận. Do đó tuyên trả cho ông Vũ Tiến D và bà Nguyễn Thị L 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA – SH 150i, số khung 251XGY046893, số máy KF 26E0046764, xe không có đăng ký, không Biển kiểm soát.

Đối với 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011784 mang tên Đỗ Đức Trọng và BKS 17B9- 487.68 là giả cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo Lê Thị H và người đàn ông tên Hưng môi giới cho bị cáo K mua ma túy với H, như H và K đã khai nhận, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Thơi han tam giam của các bị cáo còn dưới 45 ngày nên Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam đối với các bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị H và bị cáo Vũ Tiến H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Thị H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021.

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Tiến H 15 (Mười lăm) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình K 21 (Hai mươi mốt) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021.

3. Căn cứ điểm a, b, c khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án:

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung và số tiền 1.500.000đ (Một triệu, năm trăm nghìn đồng) thu giữ của Lê Thị H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo thu giữ của Nguyễn Đình K.

Tiêu hủy số vật chứng sau đây: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Nguyễn Đình K, bắt ngày 16/7/2021, bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong ban đầu, ba mảnh ni lon màu xanh, mảnh giấy bạc màu trắng, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Lê Thị H, sn 1981, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vũ Tiến H, kết quả Dương tính, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Nguyễn Đình K, kết quả Dương tính, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011784 mang tên Đỗ Đức Tr và BKS 17B9- 487.68.

Tuyên trả lại cho ông Vũ Tiến D 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Hon Da – SH 150i, màu trắng số khung 251XGY046893, số máy KF 26E0046764.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2021/HS-ST

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về