TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 02/2022/HS-ST NGÀY 25/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25/11/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2022/HSST ngày 01/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-HS ngày 11/11/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Văn C; tên gọi khác: không;
Sinh năm 1988 tại Thanh Hóa;
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Nậm Hàng, thị trấn N, huyện N, tỉnh L; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Lê Văn Th, sinh năm 1962 và con bà Lê Thị Th, đã chết; Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Khoàng Thị M, sinh năm 1991; Con: Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011;
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân bị cáo: Ngày 27/9/2013, Lê Văn C bị Tòa án nhân dân huyện N xét xử và bị xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Đến thời điểm phạm tội, bị cáo đã được xóa án tích.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2022 tại Nhà tạm giữ C an huyện N cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
Anh Lò Văn Th, sinh năm 1980 Trú tại: Bản N, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 22/4/2022, Lê Văn C đã mua của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch tại bản Huổi Lĩnh, xã Nậm Chà, huyện N 01 gói Heroine với giá 700.000 đồng. Sau khi mua được, C mang về nhà của mình tại tổ dân phố Nậm Hàng, thị trấn N, huyện N rồi chia thành nhiều gói nhỏ để bán và trả công cho người làm thuê.
Khoảng 08 giờ ngày 23/4/2022, Lê Văn C đang ở nhà tại tổ dân phố Nậm Hàng, thị trấn N, huyện N, có Lò Văn Th là người nghiện ma túy đến xin làm thuê để được trả công bằng ma túy. C đồng ý và bảo Th đi chặt củi cho mình tại khu vực khe suối cạnh C ty Bảo hiểm huyện N. Trước khi Th đi làm, C lấy ra 01 gói Heroine được bọc bằng mảnh nilon màu hồng (tương đương với số tiền 100.000 đồng) đưa cho Th. Nhận được Heroine, trên đường đi chặt củi, Th lấy gói Heroine ra để sử dụng hết bằng hình thức chích.
Đến sáng ngày 24/4/2022, Lò Văn Th tiếp tục đến nhà Lê Văn C để làm thuê (chặt củi) để được trả công bằng ma túy. Đến Khoảng 10 giờ cùng ngày, Th đến nhà C và nói với C là đã tập kết toàn bộ củi đến khu vực khe suối cạnh C ty Bảo hiểm huyện N. Nghe vậy, C vào trong nhà lấy ra 01 gói Heroine được bọc bằng mảnh nilon màu hồng (tương đương với số tiền 100.000 đồng) để trả công cho Th. Nhận được gói Heroine, trên đường về nhà Th vào bụi cây thuộc tổ dân phố Pa Kéo, thị trấn N, lấy gói Heroine ra sử dụng xong thì bị C an huyện N phát hiện, lập biên bản xử lý hành chính, thu giữ 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.
Căn cứ vào lời khai của Lò Văn Th, Cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện N đã khám xét khẩn cấp và ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Văn C để điều tra làm rõ. Qua khám xét cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện N đã phát hiện, thu giữ 01 cục chất bột màu trắng, 01 lọ nhựa màu vàng bên trong chứa 09 gói nhỏ chất bột màu trắng đều được gói bằng mảnh nilon màu hồng; 01 túi zíp màu hồng, bên trong chứa 03 viên nén màu hồng. Mục đích Lê Văn C tàng trữ là để sử dụng và bán kiếm lời.
Cùng ngày 24/4/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện N đã mở niêm phong, xác định khối lượng và kết luận giám định tư pháp theo vụ việc số 21 ngày 24/4/2022 về khối lượng kết luận: Tổng số chất bột khô màu trắng thu giữ của Lê Văn C có khối lượng 2,37 gam và 01 gói gồm 03 viên nén màu hồng có khối lượng 0,26 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Lê Văn C là 2,63 gam và đã lấy toàn bộ 2,37 gam chất bột khô, màu trắng và 0,26 gam viên nén màu hồng thu giữ của Lê Văn C làm mẫu giám định chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 357/GĐ-KTHS ngày 27/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh L kết luận: 03 Mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1, M2, M3) thu giữ của Lê Văn C gửi đến giám định là ma tuý, loại Heroine;
01 Mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M4) thu giữ của Lê Văn C gửi đến giám định là ma tuý, loại Methamphetamine; (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).
Cáo trạng số 40/CT - VKS ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đã truy tố bị cáo Lê Văn C về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Khoản 2 Điều 251: Tội mua bán trái phép chất ma túy, quy định:
...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L thực hành quyền công tố tại phiên tòa căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng Lò Văn Th và lời khai nhận tội tại phiên tòa của bị cáo, nên có đủ cơ sở để khảng định Lê Văn C đã thuê Lò Văn Th làm việc cho mình vào ngày 23/4/2022 và ngày 24/4/2022 và đã trả công bằng ma túy cho Lò Văn Th 02 lần, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và thừa nhận 02 lần trả công làm thuê bằng ma túy cho Lò Văn Th và gia đình bị cáo có bà ngoại bị cáo là bà Lê Thị Ỷ là người đã được tặng bằng khen "Đã có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống pháp xâm lược". Do vây, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" và đề nghị áp dụng điểm b khoản 2, Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Văn C từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" và đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Về án phí bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi hai lần trả công làm thuê bằng ma túy cho Lò Văn Thvào ngày 23/4/2022 và ngày 24/4/2022. Tại phần tranh luận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra ban đầu từ ngày 24/4/2022 bị cáo Lê Văn C thừa nhận 02 lần trả công làm việc cho Lò Văn Th bằng Ma túy một lần ngày 23/4/2022 và một lần ngày 24/4/2022. Đến ngày 05/7/2022 bị cáo Lê Văn C thay đổi lời khai bị cáo Lê Văn C không thừa nhận về hành vi phạm tội ngày 23/4/2022, bị cáo không thuê Lò Văn Th làm việc cho mình và không trả công bằng ma túy cho Lò Văn Th, bị cáo chỉ thừa nhận ngày 24/4/2022 bị cáo có thuê Lò Văn Th làm việc cho mình và trả công bằng ma túy cho Th một lần.
Quá trình điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án và những lời khai nhận tội của bị cáo Lê Văn C tại các biên bản ghi lời khai ngày 24/4/2022; ngày 29/4/2022; ngày 02/5/2022 và biên bản hỏi cung ngày 04/5/2022, bị cáo Lê Văn C đều khai nhận đã mua Heroine của một người đàn ông khoảng 40 tuổi C không biết tên tuổi và địa chỉ của người này tại bản Huổi Lĩnh, xã Nậm Chà, huyện N vào ngày 22/4/2022 với giá 700.000 đồng. Đến ngày 23/4/2022 có Lò Văn Th đến nhà C hỏi để làm thuê và để được Lê Văn C trả công bằng ma túy cho T, Lê Văn C đồng ý và đã đưa ma túy cho Lò Văn Th ngày 23/4/2022 để làm thuê cho mình. Đến ngày 24/4/2022, Lò Văn Thtiếp tục đến nhà Lê Văn C để làm thuê chặt củi, khoảng 10 giờ cùng ngày khi Lò Văn Th về nhà Lê Văn C, C đã vào trong buồng ngủ của C lấy 01 gói Heroine tương đương 100.000 đồng để trả công cho Th. Trong quá trình điều tra ban đầu thể hiện tại các biên bản ghi lời khai và biên bản hỏi cung bị cáo đều thừa nhận trong 02 ngày 23/4/2022 và ngày 24/4/2022 bị cáo Lê Văn C đã hai lần trả công băng ma túy cho Lò Văn T. Các lời khai nhận tội của bị cáo đều thừa nhận trong quá trình làm việc với Cơ quan điều tra bị cáo đều tỉnh táo, minh mẫn để làm việc và đều cam đoam và ký tên trong biên bản về những lời khai của bị cáo là tự nguyện, đúng sự thật, không bị ép cung hay đánh đập và chịu trách nhiệm về lời khai của mình, tại biên bản ghi lời khai ngày 24/4/2022 bị cáo tự mình viết vào biên bản thừa nhận “tôi đã được đọc toàn bộ lời khai trên và công nhận đúng sự thật”.
Tại các biên bản ghi lời khai của người làm chứng Lò Văn Th trong các ngày 24/4/2022; ngày 30/6/2022; ngày 04/7/2022 và ngày 25/8/2022 là người đã làm thuê cho Lê Văn C và biên bản đối chất ngày 05/8/2022 giữa Lò Văn Thvà Lê Văn C. Lò Văn Thđều khai nhận và khảng định trong hai ngày 23/4/2022 và ngày 24/4/2022, Lò Văn Th có đến làm thuê chặt củi cho Lê Văn C và đã được trả công 02 lần bằng Heroine trong hai ngày đó.
Do đó hành vi không nhận tội của bị cáo Lê Văn C không thừa nhận 02 lần trả công làm thuê bằng ma túy cho Lò Văn Th là để trốn tránh và làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà mình gây ra.
Tại phiên tòa quá trình xét hỏi, bị cáo Lê Văn C đã thành khẩn khai báo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo vào ngày 23/4/2022 và ngày 24/4/2022 đã thuê Lò Văn Th làm cho mình và đã trả công 02 lần bằng ma túy cho Thvào hai ngày đó Từ những lời khai nhận tội của bị cáo có trong hồ sơ cùng lời khai nhận tội tại phiên tòa về hành vi 02 lần đã trả công làm thuê bằng ma túy cho Lò Văn Th và lời khai nhận tội của người làm chứng Lò Văn Th từ những căn cứ đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:
Trong tháng 4/2022, tại nhà của Lê Văn C tại bản Nậm Hàng, thị trấn N, huyện N, tỉnh L, Lê Văn C đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn Th bằng hình thức trả công, cụ thể như sau:
Lần 1: Khoảng 08 giờ, ngày 23/4/2022, Lò Văn Thlà người nghiện ma túy đến nhà của Lê Văn C để xin làm thuê (chặt củi) và để được trả công bằng ma túy, C đồng ý và trả cho Th một gói ma túy (tương đương với giá 100.000 đồng) để Th làm thuê cho mình, số Heroine được C trả Thđã sử dụng hết.
Lần 2: Đến sáng ngày 24/4/2022, Lò Văn Th tiếp tục đến nhà Lê Văn C để làm thuê (chặt củi). Đến Khoảng 10 giờ cùng ngày Lò Văn Th đi về nhà Lê Văn C, về đến nhà Lê Văn C, C vào trong nhà lấy ra cho Lò Văn Th một gói ma túy (tương đương với giá 100.000 đồng) để trả công cho Th.
Do vậy, hành vi trên của bị cáo Lê Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" quy định tại điểm b khoản 2 điều 251 của Bộ luật hình sự.
Vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn. Hơn nữa, ma tuý còn là tác nhân làm gia tăng tội phạm, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui của gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi "Mua bán trái phép chất ma tuý " là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích cá nhân nên bị cáo đã cố ý thực hiện.
[4]. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Xong khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về nhân thân của bị cáo: Ngày 27/9/2013, Lê Văn C bị Tòa án nhân dân huyện N xét xử và bị xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Đến thời điểm phạm tội, bị cáo đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân. Nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện.
Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo bản thân thành công dân có ích cho xã hội.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử nhận thấy trong suốt thời gian từ ngày 24/4/2022 bị cáo Lê Văn C thừa nhận hành vi 02 lần trả công làm thuê bằng ma túy cho Lò Văn Th. Đến ngày 05/7/2022, bị cáo Lê Văn C thay đổi lời khai không thừa nhận hành vi phạm tội ngày 23/4/2022, không trả công bằng ma túy cho Lò Văn Th và chỉ trả công bằng ma túy cho Th 01 lần ngày 24/4/2022, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận 02 lần đã trả công làm thuê bằng ma túy cho Lò Văn Th, gia đình bị cáo Lê Văn C có bà ngoại của bị cáo là bà Lê Thị Ỷ là người đã được tặng bằng khen "Đã có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống pháp xâm lược. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện Kiểm sát áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế các bị cáo khó khăn, không có thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Về vật chứng của vụ án:
- 2,37 gam Heroine và 0,26 gam Methamphetamine thu giữ của Lê Văn C đã gửi toàn bộ đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
- Vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong được đựng trong một phong bì thư do C an huyện N lưu hành. Mặt trước của bì niêm phong có ghi: Vỏ bì, mảnh nilon sau khi mở niêm phong của Lê Văn C, SN: 1988, trú tại bản Nậm Hàng, thị trấn N, huyện N, tỉnh L, hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy, Tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt sau trên các mép dán bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng dán đè lên, có chữ ký và ghi đầy đủ họ tên của Lò Văn V, Lý Văn H, Lò Văn V, Nguyễn Thành Đ, Sùng A L, Lê Văn C và đóng 02 dấu tròn màu đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện N ở hai đầu mép dán.
- 01 lọ nhựa màu vàng, lắp lọ nhựa hình cánh chim và chữ số 5 thu giữ của Lê Văn C.
- 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn T.
Xét thấy những đây là phong bì niêm phong các vật chứng và dụng cụ phạm tội trong vụ án, nên cần áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[6]. Trong vụ án Lê Văn C, khai nhận nguồn gốc số Heroine bị cáo mua của một người đàn ông ngày 22/4/2022. Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ của người đàn ông trên trên. Do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lò Văn Th đã bị C an huyện N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức cảnh cáo.
[7]. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo Lê Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".
1. Về hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Lê Văn C:
Xử phạt bị cáo Lê Văn C 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý". Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/4/2022.
2. Về xử lý vật chứng của vụ án:
- Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:
- Vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong được đựng trong một phong bì thư do C an huyện N lưu hành. Mặt trước của bì niêm phong có ghi: Vỏ bì, mảnh nilon sau khi mở niêm phong của Lê Văn C, SN: 1988, trú tại bản Nậm Hàng, thị trấn N, huyện N, tỉnh L, hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy, Tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt sau trên các mép dán bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng dán đè lên, có chữ ký và ghi đầy đủ họ tên của Lò Văn V, Lý Văn H, Lò Văn V, Nguyễn Thành Đ, Sùng A L, Lê Văn C và đóng 02 dấu tròn màu đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện N ở hai đầu mép dán.
- 01 lọ nhựa màu vàng, lắp lọ nhựa hình cánh chim và chữ số 5 thu giữ của Lê Văn C.
- 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn Th.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 13/10/2022 giữa Cơ quan C an huyện N, tỉnh L với Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh L).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định, bị cáo Lê Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 02/2022/HS-ST
Số hiệu: | 02/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về