TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 02/2022/HS-ST NGÀY 08/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 11 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử công khai trực tuyến sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 03/2022/TLST-HS ngày 13/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-HS ngày 25/10/2022 đối với các bị cáo Cầm Văn L, tên gọi khác: Không, sinh ngày 20/10/1984, tại xã Q, huyện M, tỉnh Sơn La; cư trú tại bản N, xã Q, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cầm Văn K, sinh năm 1964 (đã chết) và bà Lò Thị L, sinh năm 1964, vợ là Vì Thị C, sinh năm 1987, có 02 con; tiền án: Tại Bản án số 25/2019/HSST ngày 26/3/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tiền sự: Không; nhân thân: Là đối tượng nghiện ma túy, ngày 11/7/2008 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; ngày 31/7/2014 bị Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2022 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 30/6/2022 Cầm Văn L đi từ huyện M đến huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La chơi thì gặp 01 người đàn ông tên Đ không biết họ và địa chỉ ở đâu hỏi mua ma túy, qua trao đổi L nhận lời sẽ bán ma túy cho Đ và lấy số điện thoại của Đ để lúc nào mua được ma túy sẽ gọi cho Đ. Ngày 21/7/2022 L đi xem ôm đến bản P, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La mua với 01 người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ 200 viên hồng phiến với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng), sau khi mua được ma túy L gọi điện thoại cho Đ đến cây xăng Y, xã TP, huyện Phù Yên để nhận ma túy, trên đường về L bảo người lái xe ôm dừng xe để L đi vệ sinh, L vào bụi cây ven đường lấy ra 13 viên sử dụng thì thấy có 02 viên màu xanh là viên chống ẩm L vứt luôn tại đó, còn 185 viên L gói lại rồi tiếp tục đi xe ôm về nhà rồi đến bến thuyền bản N, xã Q, huyện M đón thuyền để đến cây xăng Y, xã TP, huyện Phù Yên bán ma túy cho Đ, trên đường đi thì bị tổ công tác của Công an huyện Phù Yên kiểm tra phát hiện, thu giữ 185 viên nén màu hồng và 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung Galaxy A10s, màu xanh.
Cùng ngày 21/7/2022 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cùng sự có mặt của Cầm Văn L và người làm chứng tiến hành mở niêm phong, cân tịnh 185 viên nén màu hồng có tổng khối lượng là 18,21 gam, đồng thời lấy 05 viên có khối lượng 0,51 gam niêm phong ký hiệu L1 gửi giám định, còn lại 180 viên có khối lượng 17,70 gam niêm phong ký hiệu L2 lưu kho vật chứng Công an huyện Phù Yên.
Tại kết luận giám định số 1278/KL-KTHS ngày 25/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định khối lượng 0,51 gam ký hiệu L1 là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 18,21 là ma túy, loại Methamphetamine.
Tại Cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 13/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La truy tố bị can Cầm Căn L về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Cầm Văn L khai nhận Ngày 30/6/2022 bị cáo đến huyện Phù Yên chơi thì gặp 01 người đàn ông tên Đ không biết họ và địa chỉ hỏi mua ma túy với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng), bị cáo nhận lời sẽ bán ma túy cho Đ và lấy số điện thoại với Đ để khi mua được ma túy sẽ gọi cho Đ. Ngày 21/7/2022 bị cáo đi xe ôm từ nhà đến bản P, xã V, huyện V mua với 01 người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ 200 viên hồng phiến với giá 3.000.000đ (Ba triệu đồng), sau đó bị cáo gọi điện bảo Đ đến cây xăng Y, xã TP, huyện Phù Yên nhận ma túy, trên đường về bị cáo bảo xe ôm dừng xe cho bị cáo đi vệ sinh, bị cáo đem số ma túy mua được vào bụi cây ven đường lấy ra 13 viên để sử dụng thì thấy có 02 viên màu xanh là viên chống ẩm bị cáo đã vứt luôn tại đó, còn lại 185 viên bị cáo gói lại rồi tiếp tục đi xe ôm về nhà rồi đến bến thuyền bản N, xã Q, huyện M đón thuyền đến điểm hẹn bán ma túy cho Đ, trên đường đi thì bị tổ công tác của Công an huyện Phù Yên kiểm tra phát hiện, thu giữ 185 viên nén màu hồng và 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung Galaxy A10s, màu xanh, bên trong máy có sim số thuê bao 0365.533.xxx.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La tham gia phiên tòa trình bày Luận tội, giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Cầm Văn L và đề nghị áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cầm Văn L từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (21/7/2022).
Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) đề nghị không áp dụng đối với bị cáo.
Vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là 17,70 gam, loại Methamphetamine; 01 phong bì của Công an huyện Phù Yên bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang, 01 mảnh nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh; 01 chiếc phong bì của Công an huyện Phù Yên đang niêm phong vật chứng.
Tịch thu phát mại nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung Galaxy A10s, màu xanh, bên trong máy có sim số 0365.533.xxx của bị cáo dùng thực hiện hành vi phạm tội.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Bị cáo phải chịu theo luật định.
Bị cáo tranh luận tại phiên tòa, nhất trí với Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La truy tố đối với bị cáo Cầm Văn L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định về ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ cả về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng của vụ án thu được. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.
[4]. Đối với người đàn ông người Mông bán ma túy cho bị cáo tại bản P, xã V, huyện M do không biết tên, địa chỉ do đó không có cơ sở xác minh, điều tra làm rõ để đưa ra xử lý trong vụ án.
[5]. Đối với người đàn ông tên Đ theo bị cáo cung cấp là người bảo bị cáo mua ma túy cho Đ. Quá trình điều tra, xác minh tại thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên không có ai có tên Đ có đặc điểm, hình dáng như bị cáo cung cấp. Quá trình điều tra, xác minh số điện thoại 0923.551.558 bị cáo liên lạc với người đàn ông tên Đ là số điện thoại của anh Vũ Minh H, hiện đang cư trú tại tiểu Khu X, thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La anh H khẳng định anh không được liên lạc với ai tên là Cầm Văn L và anh hoàn toàn không biết bị cáo L, tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận không quen biết anh H. Do đó, không có căn cứ xác định người có liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy với bị cáo trong vụ án.
Với những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở khách quan để kết luận bị cáo Cầm Văn L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
[6]. Tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:
Bị cáo nhận thức rõ hành vi mua, bán trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, do hám lời bị cáo đã bất chấp pháp luật, coi thường dư luận để thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp tái phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời số ma túy của bị cáo mua được có thể sẽ được bán cho nhiều người, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Đây là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Để đảm tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cần xử lý nghiêm, kịp thời, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Tình hình tội phạm về ma tuý trên địa bàn huyện Phù Yên vẫn diễn biến phức tạp cả về tính chất và mức độ, mặc dù đã được các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương thường xuyên tuyên truyền, vận động nói không với ma tuý, nhưng thực tế vẫn chưa có chuyển biến tích cực. Để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cần xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo.
[7]. Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
[8]. Nhân thân của bị cáo: Là đối tượng nghiện ma túy đã bị Tòa án xét xử 03 lần vào các năm 2008, 2014 và năm 2019 đều về tội ma túy, trong thời gian chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới về ma túy.
Căn cứ tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để xem xét, cân nhắc mức hình phạt tương xứng với hành vi pham tội của bị cáo.
[9]. Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn bị phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra, xác minh bị cáo là lao động tự do, là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập thấp, không có tài sản để đảm bảo thi hành án phạt tiền. Do đó, không áp dụng đối với các bị cáo.
[10]. Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, cư trú không ổn định, cần tiếp tục tạm giam bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự để đảm bảo công tác thi hành án hình sự.
[11]. Vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là 17,70 gam, loại Methamphetamine; 02 chiếc phong bì của Công an huyện Phù Yên đang niêm phong vật chứng, 01 vỏ phong bì dùng niêm phong vật chứng khi bắt quả tang, 01 mảnh nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh;
Tịch thu phát mại nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung Galaxy A10s, màu xanh, bên trong máy có sim số thuê bao 0365.533.xxx, số IMELI1: 358176103601122, số IMEI 2: 358176103601120.
[12]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo không thuộc đối tượng được miễn, giảm án phí. Do đó, phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Cầm Văn L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Cầm Văn L 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (21/7/2022).
Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không áp dụng đối với bị cáo.
2. Vật chứng của vụ án:
Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 17,70 gam ma túy còn lại, loại Methamphetamine, 02 chiếc phong bì của Công an huyện Phù Yên niêm phong vật chứng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang, 01 mảnh nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh;
Tịch thu phát mại nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung Galaxy A10s, màu xanh, bên trong máy có 01 sim số thuê bao 0365.533.xxx, số IMELI1: 358176103601122, số IMEI 2: 358176103601120.
3. Án phí hình sự sơ thẩm:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Cầm Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 02/2022/HS-ST
Số hiệu: | 02/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về