Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 01/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M L – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 01/2021/HSST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M L xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 149/2020/HSST ngày 21 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thúy Hh - sinh năm 1993. Nơi ĐKHKTT: Ấp Tr, xã T L, huyện Ch, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9 /12; Con ông: Nguyễn Văn Ú, sinh năm 1964 và Nguyễn Thị Gi, sinh năm 1962; Chồng chưa có; Con có 03 con (Con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2020) Tiền án, tiền sự: không. Bị tạm giữ từ ngày 14/5/2019 đến ngày 24/5/2019. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1990, Trú tại H, Y, T T, Hà Nội. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thúy Hh là đối tương không có việc làm ổn định, thường đi mua ma túy về bán lại để kiếm lời. Ngày 13/5/2019, H điều khiển xe mô tô một mình đi đến khu vực chợ M, xã Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội để tìm mua ma túy. H đã gặp và mua của 01 nam thanh niên tên K (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) đươc 01 gói ma túy tổng hơp “đá” với giá 1.000.000 đồng. Mua đươc ma túy, H đem về phòng trọ của mình ở xã S, huyện Đ, Hà Nội rồi chia nhỏ số ma túy vừa mua đươc thành 07 túi nhỏ.

Khoảng 19 giờ ngày 14/5/2019, H rủ bạn trai là Nguyễn Thanh T đi sang thị trấn Q, huyện M L, TP Hà Nội để chơi với bạn. T điều khiển xe mô tô chở H đi đến thị trấn Q thì H nhận đươc cuộc gọi từ số điện thoại 0385.758.458 của Nguyễn Thị Q đến số điện thoại 0399.431.792 của H và hỏi “đang ở đâu, đi ra vòng xuyến thị trấn Ch bán cho M hai cái ba” H hiểu ý của Q là bán cho đối tương tên Mh 02 túi ma túy với giá 300.000 đồng H đồng ý. Sau đó H bảo T chở H đi đến điểm hẹn để gặp bạn, đến nơi H bảo T dừng xe và một mình đi bộ đến gần chỗ M để bán ma túy. Lúc này, tổ công tác Công an thị trấn Ch thấy H có biểu hiện nghi vấn nên đã kiểm tra và phát hiện, bắt quả tang H đang có hành vi cầm ma túy trên tay đến bán cho M. Lơi dụng sơ hở, T và M đã bỏ chạy thoát.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thúy H khai nhận: Ngày 13/5/2019, sau khi mua được ma tuý tại chợ M đem về chỗ ở của mình chia nhỏ số ma túy vừa mua đươc thành 07 túi nhỏ. Huỳnh cho bạn trai là Nguyễn Thanh T 01 túi ma túy, cùng lúc này H nhận đươc cuộc gọi từ số điện thoại 0385.758.458 của Nguyễn Thị Q đến số điện thoại 0399.431.792 của H hỏi “chị có ma túy không, nếu có mang sang vòng xuyến thị trấn Ch bán cho bạn em tên là M”. H trả lời “có” và tắt máy. H đi xe mô tô đến điểm hẹn gặp Q và cho Q 01 túi ma túy để sử dụng. Tiếp đó H gặp M tại vơng xuyến thị trấn Ch và bán cho M 01 túi ma túy với giá 300.000 đồng. Bán ma túy cho Mh xongơH đi về đến cầu vươt N, huyện Đ, thành phố Hà Nội thì nhận đươc điện thoại của một thanh niên tự nhận tên là H bảo H đến khu vực đầm Sen, thuộc đại bàn xã T để mua ma túy của H. H tiếp tục đi đến địa điểm hẹn gặp H và bán cho H 01 túi ma túy với giá 300.000 đồng. Số ma túy cơn lại H vẫn cất giấu trong người và đi về phòng trọ. Đến ngày 14/5/2019, khi H đang bán ma túy cho đối tương M thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Ngày 27/4/2019, Cơ quan CSĐT – Công an huyện M L khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thúy H ở thôn Th, xã S, huyện Đ, thành phố Hà Nội, cơ quan điều tra không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến vụ án.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện M L Nguyễn Thúy H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

* Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại lòng bàn tay phải có 02 túi nilon màu trắng kích thước (1 x 1)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng; thu giữ tại lòng bàn tay trái có 01 túi nilon màu trắng kích thước (1 x 1)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số seri 357984033693486 bên trong có sim 039.943.1792 và 01 thẻ Căn cước công dân số 001090008974 mang tên Nguyễn Thanh T Tại kết luận số 3055/KLGĐ-PC09 ngày 21/5/2019 của phòng KTHS – Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông (thu giữ ở tay trái) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,180 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi ni lông (thu giữ ở tay phải) là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,329 gam.

Quá trình giám định, cơ quan giám định đã lấy 0,039 gam Methamphetamine làm mẫu giám định, phần còn lại gồm 0,470 gam Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói hoàn trả cơ quan điều tra để xử lý theo quy định pháp luật.

Toàn bộ số vật chứng trên đươc chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện M L để xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với đối tương tên K đã bán ma túy cho Nguyễn Thúy H tại xã Đ huyện Đ, thành phố Hà Nội: Quá trình điều tra không xác định đươc họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xem xét xử lý.

Đối với các đối tương tên M mua ma túy của H ở tổ 1, thị trấn Ch, huyện M L, thành phố Hà Nội và đối tương tên H mua ma túy của H ở khu vực đầm Sen thuộc thôn Ph, xã T, huyện M , thành phố Hà Nội, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng không xác định đươc họ tên, địa chỉ cụ thể nên chưa có căn cứ để xử lý.

Đối với Nguyễn Thanh T là người đươc Nguyễn Thúy H cho 01 túi ma túy để sử dụng và đi cùng với H để bán ma túy, quá trình điều tra Nguyễn Thúy H khai khi T chở H đi H không nói cho T biết việc H đi bán ma túy, hiện T vắng mặt tại địa phương Cơ quan điều tra chưa làm việc đươc nên chưa có căn cứ để xử lý.

Đối với đối tương tên Q sử dụng số thuê bao 0385.758.458 gọi điện bảo H bán ma túy cho M: quá trình điều tra xác định đối tương là Nguyễn Thị Q – sinh năm 1990 ở khu 6, xãơTh, huyện Y, tỉnh Y B (đã lấy chồng và chuyển hộ khẩu đến xã Ph, huyện C, tỉnh Phú Thọ). Quá trình xác minh, ông Nguyễn Văn H (bố chồng Q) khai Q bỏ nhà đi từ năm 2013 đến nay không liên lạc đươc và hiện chưa xác định đươc Q đang ở đâu nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ để xử lý.

Đối với số thuê bao 039.943.1792 Nguyễn Thúy H sử dụng để liên lạc khi bán ma túy: quá trình điều tra xác định chủ thuê bao là Bùi Công Ng – sinh năm 1999 ở xã A, huyện Q, tỉnh T. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an xã A và xác định không ai có họ tên, địa chỉ như trên.

Đối với chiếc xe mô tô H khai dùng để đi sang xã Đ, huyện Đ để mua ma tuý và đi bán ma tuý ngày 13/5/2019: Huỳnh khai chiếc xe mô tô này là do H mươn của một người tên là C (không rõ họ tên và địa chỉ) ở quán Internet gần chỗ ở sau đó đã trả lại. Quá trình điều tra không xác định đươc người cho mươn xe và chiếc xe mô tô nên không xem xét, xử lý.

Đối với hành vi bán ma túy ngày 13/5/2019 của Nguyễn Thúy H, Cơ quan điều tra chưa xác đươc đối tương mua ma túy, ngoài lời khai của Nguyễn Thúy H không có tài liệu, chứng cứ nào khác xác định H đã bán trái phép chất ma túy cho M và H nên chưa có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 103/CT-VKS ngày 28/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện M L truy tố bị cáo Nguyễn Thúy H về tội “Mua bán trái phét chất ma túy” theo khoản 1 điều 251 BLHS.

Tại phiên tơa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và khai nhận toàn bộ hành vi của mình phù hơp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu luận tội đối với bị cáo giữ nguyên quyết định truy tố. Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thúy H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt Nguyễn Thúy H từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Về vật chứng vụ án đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tơa, không có ý kiến tranh luận gì khác. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đươc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hơp pháp.

[2]- Về hành vi của bị cáo:

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Thúy H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hơp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố; phù hơp với: lời khai của bị cáo, người làm chứng tại Cơ quan điều tra, vật chứng vụ án đã đươc thu giữ và phù hơp với các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận: Khoảng 20h15’ ngày 14/5/2019, tại tổ 1, thị trấn Ch, huyện M L, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thúy H đang có hành vi bán trái phép chất ma tuý thì bị tổ công tác công an thị trấn Ch, huyện M L phát hiện, bắt quả tang. Tang vật thu giữ đươc 0,509 gam chất ma túy loại “Methamphetamine”.

Hành vi của bị cáo phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo khoản 1 Điều 251 BLHS. Cụ thể điều luật quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm….”

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm an ninh trật tự và an toàn trong xã hội, xâm phạm đến việc độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước. Hiện nay tệ nạn nghiện hút chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy diễn ra rất phức tạp, gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội, từ tệ nạn về ma túy là nguyên nhân phát sinh ra nhiều loại tội phạm nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo tham lơi bất chínhơđã mua ma túy về bán lại cho các con nghiện, hành vi của bị cáo là nguy hiển, làm lan tràn tệ nạn nghiện hút ma túy trong xã hội. Sau khi nhận bản kết luận điều tra bị cáo đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, ngày 15/12/2020 bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã. Vì vậy cần xử phạt nghiêm trước pháp luật nhằm giáo dục riêng và phơng ngừa chung, do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt tù mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội quá trình điều tra và tại phiên tơa đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lương hình.

Do bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, đang nuôi con nhỏ nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo.

[3]- Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy đã thu giữ còn lại sau giám định 0,509g; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động di động Nokia màu đen, số seri 357984033693486 bên trong có sim 039.943.1792. Trả lại 01 thẻ Căn cước công dân số 001090008974 mang tên Nguyễn Thanh T.

[4]- Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thúy H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

-Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thúy Hh 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án đươc trừ thời gian tạm giữ từ ngày 14/5/2019 đến 24/5/2019 - Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ Luật Tố tụng Hình sự.

+ Tịch thu tiêu huỷ số ma túy cơn lại 0,470 gam “Methamphetamine”.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động di động Nokia màu đen, số seri 357984033693486 bên trong có sim 039.943.1792.

+Trả lại Nguyễn Thanh T 01 thẻ Căn cước công dân số 001090008974 (Tình trạng vật chứng như tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra và cơ quan Thi hành án huyện M L ngày 21/12/2020)

- Án phí: Áp dụng điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lơi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về phần có liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đươc bản án hoặc bản án đươc niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 01/2021/HSST

Số hiệu:01/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mê Linh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về