Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 48/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 20/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 12 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2021/TLST- HS, ngày 02 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: La Văn C; Sinh ngày 05 tháng 10 năm 1997 tại huyện NS, tỉnh Bắc Kạn.

Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: K, xã B, huyện NS, tỉnh Bắc Kạn.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Trình độ học vấn: 7/12.

Họ và tên cha: La Văn C (đã chết).

Họ và tên mẹ: Nông Thị M, sinh năm 1969, trú tại K, xã B, huyện NS, tỉnh Bắc Kạn.

Vợ, con: Chưa có.

Tiền sự: Không.

Tiền án: 01 tiền án. Tại bản án số 86/2019/HSST ngày 29/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo La Văn C 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 19/6/2020 La Văn C chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo La Văn C bị bắt tạm giữ, tạm giam tại từ ngày 27/02/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo La Văn C: Bà Trần Thị Kim L - Luật sư, Văn phòng Luật sư M thuộc đoàn Luật sư tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nông Thị M, sinh năm 1969; Địa chỉ: K, xã B, huyện NS, tỉnh Bắc Kạn (Có mặt).

2. Ông Nguyễn Văn H (tên thường gọi là B), sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn D, xã X, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Có mặt).

*Người làm chứng: Linh Quang T; Địa chỉ: Thôn Đ, xã B, huyện NS. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 20 phút, ngày 27/02/2021, tại đường tỉnh lộ 252B thuộc thôn BL, xã TQ, huyện NS tổ công tác của Công an huyện NS lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với La Văn C, sinh năm 1997, trú tại K, xã B, huyện NS về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng, tài sản tạm giữ gồm: 01 (một) gói nilon màu xanh bên trong có 02 (hai) gói nilon chứa chất màu trắng dạng cục là ma túy, 01 (một) điện thoại di động, số tiền 9.100.000đ (Chín triệu, một trăm nghìn đồng) và một số đồ vật khác có liên quan.

Ngày 27/02/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện NS khám xét khẩn cấp nơi ở của La Văn C tại K, xã B, huyện NS. Kết quả thu, tạm giữ:

01 (một) cân điện tử, số tiền 66.950.000đ (Sáu mươi sáu triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng) trong tủ tại phòng khách và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên La Văn C.

Ngày 27/02/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện NS đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất màu trắng thu giữ khi bắt quả tang La Văn C có tổng khối lượng là 36,73g (B mươi sáu phẩy bẩy mươi ba gam) được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 để gửi giám định.

Ngày 01/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện NS ra Quyết định trưng cầu giám định số 11 trưng cầu giám định chất màu trắng thu giữ của La Văn C trong phong bì niêm phong ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giảm định số 65/ KTHS-MT ngày 05/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng dạng cục và bột trong phong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine có khối lượng là 36.73gam (B sáu phẩy bẩy mươi ba gam). Sau giám định mẫu chất trong phong bì ký hiệu A1 còn lại là 33,75 gam (B mươi ba phẩy bẩy mươi năm gam) cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T65 hoàn trả lại cho Cơ quan trung cầu.

Quá trình điều tra La Văn C khai nhận: Bản thân C nghiện chất ma túy và không có nghề nghiệp ổn định, để có ma túy sử dụng C mua ma túy về bán cho những người nghiện ma túy khác để kiếm lời. Vào đêm ngày 22/02/2021, C một mình đón xe khách (không nhớ biển kiểm soát) chạy tuyến Cao Bằng - Hà Nội đi từ nhà tại xã B, huyện NS đến thành phố Thái Nguyên đề mua ma túy. Khi đến khu vực bến xe khách tỉnh Thái Nguyên, C gọi điện thoại cho một người tên T, C quen biết từ trước nhưng không biết họ, tên đệm, năm sinh và địa chỉ, để hỏi mua 26.000.000₫ (Hai mươi sáu triệu đồng) tiền ma túy loại Heroine và được T đồng ý. Buổi sang ngày 23/02/2021, C gặp T tại khu vực bến xe khách tỉnh Thái Nguyên, tại đây T đưa cho C 01 (một) gói ma túy loại Heroine, C trả cho T số tiền 26.000.000đ (Hai mươi sáu triệu đồng). Sau khi mua được ma túy, C đón xe khách đi về nhà, rồi chia ma túy ra thành nhiều gói nhỏ để sử dụng cho bản thân và bán cho những người khác để kiếm lời. C đã bán ma túy cho một người tên Đức, không nhớ thời gian, địa điểm, không biết họ, tên đệm chỉ biết nhà ở khu C, xã B, huyện NS, sau đó thay đổi lời khai không được bán ma túy cho Đức. Ngoài ra, C khai nhận đã bán ma túy cho nhiều người, cụ thể:

Khoảng 15 giờ ngày 24/02/2021, tại cầu thuộc thôn Đ, xã B, huyện NS, C bán 01 (một) gói ma túy loại Heroine cho một người tên Thánh, với số tiền 2 500.000đ (Hai triệu, năm trăm nghìn đồng). Qua điều tra xác định là Linh Quang Thánh nhà ở thôn Đ, xã B, huyện NS. Thánh khai nhận được mua gói ma túy với C với số tiền, thời gian và địa điểm như lời khai của C.

Khoảng 17 giờ ngày 24/02/2021, tại đoạn đường bê tông thuộc khu C, xã B, huyện NS, C bán 01 (một) gói ma túy cho một người tên Thái không biết họ, tên đệm và năm sinh và địa chỉ cụ thể, chỉ biết nhà ở xã Đức Vân, huyện NS 01 (một) gói ma túy với số tiền 5.000.000đ(Năm triệu đồng).

Khoảng 14 giờ ngày 25/02/2021, tại đoạn đường bê tông thuộc khu AB, xã B, C bán 01 (một) gói ma túy loại Heroine cho một người tên Hải nhưng không biết họ, tên đệm, năm sinh nhà ở K, xã B, huyện NS với số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Khoảng 08 giờ ngày 27/02/2021 C đi sửa máy cưa tại xã Vân Tùng, huyện NS thì có một người tên Tiến ( không biết họ, tên đệm, năm sinh và địa chỉ cụ thể) nhà ở xã Vân Tùng, gọi điện thoại cho C nói muốn mua ma túy loại Heroine với giá tiền là 1.000.000đ (Một triệu đồng), C đồng ý. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, C một mình điều khiển xe môtô biển kiểm soát 29E1-xxxxx đi từ nhà mang theo gói ma túy, đến khu vực xã TQ, huyện NS, C dừng lại ven đường để sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong, C lấy gói ma túy đi bán cho Tiến, khi đến khu vực thôn BL, xã TQ, huyện NS thì Cơ quan Công an phát hiện, thu giữ gói ma túy.

Ngoài ra trước đây, C còn được mua ma túy Heroine với T một lần với số tiền 11.000.000đ (Mưi một triệu đồng) nhưng do đã lâu, C không nhớ thời gian chính xác. Số ma túy này sau khi mua về C đã sử dụng hết.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, La Văn C thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 49/CT-VKSBK-P1 ngày 31/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo La Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 3, Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 20 năm:...

b) Heroine, …có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng…tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo La Văn C. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo La Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52/ BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo La Văn C từ 16 đến 17 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị phạt bổ sung số tiền từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước.

- Biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu số tiền do phạm tội mà có của La Văn C là 9.100.000đ (Chín triệu, một trăm nghìn đồng) tiền bán ma túy như C đã khai nhận.

- Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật - Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: Nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh và các điều luật áp dụng. Việc xét xử bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có yêu cầu hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người trên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo La Văn C thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 27/2/2021 tại đường tỉnh lộ 252B thuộc thôn BL, xã TQ, huyện NS, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Công an huyện NS lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với La Văn C, sinh năm 1997, trú tại K, xã B, huyện NS, tỉnh Bắc Kạn đang trên đường đi bán trái phép chất ma túy cho người khác để kiếm lời. Thu giữ tổng khối lượng là 36,73g (ba mươi sáu phẩy bẩy mươi ba gam) ma túy. Tại bản kết luận giám định số 65/KTHS-MT ngày 05/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng dạng cục và bột trong phong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine có khối lượng là 36.73gam (B sáu phẩy bẩy mươi ba gam).

Như vậy, khẳng định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn truy tố đối với bị cáo La văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét vai trò và mức độ nghiêm trọng trong việc thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ về hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý, nhằm mục đích kiếm lời bất chính. Hành vi của bị cáo gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý, sử dụng chất gây nghiện của Nhà nước. Là nguyên nhân dẫn tới các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng tới an ninh trật tự xã hội. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chịu một hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa C.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo La Văn C đều khai nhận hành vi bán ma túy cho Linh Quang Thánh và bán ma túy cho Triệu Văn Thái vào ngày 24/02/2021; bán ma túy cho Nông Văn Hải ngày 25/02/2021. Nhưng trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra chỉ lấy được lời khai của Linh Quang Thánh làm rõ được hành vi C bán ma túy cho Thánh ngày 24/02/2021. Còn Thái và Hải không có mặt tại địa phương nên không làm rõ được hành vi C bán trái phép chất ma túy Thái, Hải nên không có căn cứ xác định C phạm tội nhiều lần.

[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy rằng:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại hồ sơ vụ án thể hiện, sau khi bị bắt ngày 27/02/2021 bị cáo La Văn C đã tự thú về hành vi bán trái phép ma túy vào ngày 24 và ngày 25 tháng 02 năm 2021, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng Linh Quang Thánh về số lượng ma túy và số tiền mua bán trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo cũng thừa nhận hành vi này nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 “Người phạm tội tự thú”.

Quá trình điều tra bị cáo khai có ông ngoại là Nông Ích Văn được Nhà nước tặng thưởng Huân, huy chương nhưng bị cáo không cung cấp được tài liệu chứng minh nên hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 86/2019/HSST ngày 29/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo La Văn C 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 19/6/2020 bị cáo C chấp hành xong hình phạt chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52/BLHS 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích kiếm lời nên cần áp dụng khoản 5 Điều 251/BLHS buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định của pháp luật.

[6]. Về biện pháp tư pháp: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo La Văn C thừa nhận toàn bộ số tiền 9.100.000đ (Chín triệu, một trăm nghìn đồng) thu giữ của La Văn C khi bắt quả tang là tiền do bị cáo bán ma túy mà có, do đó cần tịch thu số tiền 9.100.000đ (Chín triệu, một trăm nghìn đồng) này để sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS năm 2015; Điều 106/BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không có giá trị sử dụng gồm:

+ 01 (một) phong bì ký hiệu A2 còn nguyên niêm phong Mặt trước phong bì ghi dòng chữ “Nilon gói cũ và phong bì niêm phong cũ thu giữ của La Văn C ngày 27/02/2021, phong bì ký hiệu A2”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện NS;

+ 01 (một) phong bì ký hiệu T65 còn nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì có ghi dòng chữ “Vụ: La Văn C (1997) tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, 03 (ba) chữ ký không đọc được;

+ 01 (một) ví da màu đen đã qua sử dụng thu giữ của La Văn C.

+ 01 (một) cân điện tử màu đen đã qua sử dụng, nắp cân có in dòng chữ "POCKET SCALE".

- Tịch thu, hóa giá, sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh than, loại máy màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, bên trong máy lắp 02 sim điện thoại số 0337.401.xxx (sim1) và số 0963.233.xxx (sim2) là điện thoại C sử dụng liên lạc để mua bán trái phép chất ma túy.

- Trả lại cho La Văn C 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 09522021x mang tên La Văn C do Công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 22/6/2012.

- Trả lại cho anh Nguyễn Văn H chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 29E1-xxxxx và 01 giấy đăng ký xe.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Các vấn đề khác:

- Đối với người tên T, theo lời khai của La Văn C khai nhận là người bán ma túy cho C vào ngày 23/02/2021 ở khu vực bến xe Thái Nguyên. Qua điều tra xác định C không biết địa chỉ, nhân thân cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ.

- Đối với Hà Duy Đức, sinh năm 1997, trú tại Khu C, xã B, huyện NS là đối tượng nghiện chất ma túy, hiện nay Đức đang chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 theo bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HSST ngày 27/01/2021 về tội “Tổ chức đánh bạc”. Lời khai ban đầu Đức thừa nhận mua ma túy với C 02 (hai) lần vào các ngày 02/02/2021 và ngày 26/02/2021 nhưng sau đó Đức thay đổi lời khai không được mua ma túy với C. La Văn C khai nhận không được bán ma túy cho Hà Duy Đức. Do đó không đủ căn cứ xác định hành vi ma bán trái phép chất ma túy của C với Đức nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với Hà Duy Đức là đúng quy định.

- Đối với lời khai nhận của La Văn C, ngày 24/02/2021 được bán ma túy cho một người tên Thánh. Qua điều tra xác định là Linh Quang Thánh, sinh năm 1988, trú tại Thôn Đ, xã B, huyện NS. Thánh khai nhận, ngày 24/02/2021 tại cầu Đ, xã B, huyện NS, Thánh đã mua của C 01 (một) gói ma túy loại Heroine với số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) mục đích để sử dụng cho bản thân và đã sử dụng hết số ma túy này. Nên không đủ cơ sở xác định khối lượng số ma túy Thánh mua với C, không có căn cứ xem xét xử lý hình sự đối với Thánh.

- Đối với người đàn ông tên Tiến nhà ở xã B, huyện NS, C khai đang trên đường đi bán ma túy cho Tiến ngày 27/02/2021. Quá trình điều tra xác định C không biết họ, tuổi, địa chỉ của Tiến, nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh. Cơ quan điều tra đã tách ra để làm rõ sau.

- Đối với lời khai nhận của La Văn C, ngày 24/02/2021 được bán ma túy cho một người tên thái và ngày 25/02/2021 được bán ma túy cho một người tên Hải. Qua điều tra xác định là Triệu văn Thái sinh năm 1986, trú tại thôn Phiêng Dượng, xã Đức Vân, huyện NS và Nông Văn Hải, sinh năm 1986 trú tại K, xã B, huyện NS; nhưng Thái và Hải không có mặt tại địa phương, không có lời khai nên không đủ căn cứ xác định C phạm tội nhiều lần trong vụ án. Cơ quan điều tra tách ra để điều tra làm rõ sau.

- Đối với số tiền 66.950.000đ (Sáu mươi sáu triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng) tạm giữ khi khám xét nơi ở của La Văn C tại K, xã B, huyện NS. Qua điều tra xác định, số tiền này là của bà Nông Thị Mến, sinh năm 1969, trú tại K, xã B, huyện NS (là mẹ đẻ của La Văn C), không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra đã trả lại số tiền này cho bà Mến.

Kiến nghị cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Kạn trong việc xử lý vật chứng là trả lại cho bà Nông Thị Mến số tiền 66.950.000đ (Sáu mươi sáu triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng) thu, tạm giữ khi khám xét chỗ ở của La Văn C. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo C và bà Mến đều khai nhận số tiền này là tiền bà Mến cho La Văn C như vậy xác định đây là tiền của bị cáo C, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án dân sự của bị cáo. Việc xử lý đối với số tiền này phải được thực hiện tại giai đoạn xét xử nhưng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Kạn trả lại cho bà Mến là vi phạm Điều 106/BLTTHS.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 29E1-xxxxx La Văn C sử dụng để đi bán ma túy. Quá trình điều tra xác định chiếc xe của Nguyễn Văn H, sinh năm 1987, trú tại thôn D, xã X, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, là anh rể cho C mượn để đi lại, việc C sử dụng chiếc xe để làm phương tiện phạm tội anh H không biết, nên trả lại cho anh H và 01 chìa khóa xe.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo La Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2] Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Xử phạt bị cáo La Văn C 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam 27/02/2021.

Phạt bổ sung bị cáo La Văn C số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.

[3]. Biện pháp tư pháp: Tịch thu đối với bị cáo La Văn C số tiền 9.100.000đ (Chín triệu, một trăm nghìn đồng) là tiền do phạm tội mà có để sung vào ngân sách Nhà nước.

[4]. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106/BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không có giá trị sử dụng gồm:

+ 01 (một) phong bì ký hiệu A2 còn nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì ghi dòng chữ “Nilon gói cũ và phong bì niêm phong cũ thu giữ của La Văn C ngày 27/02/2021, phong bì ký hiệu A2”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện NS;

+ 01 (một) phong bì ký hiệu T65 còn nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì có ghi dòng chữ “Vụ: La Văn C (1997) tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 02 (hai) hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, 03 (ba) chữ ký không đọc được;

+ 01 (một) ví da màu đen đã qua sử dụng thu giữ của La Văn C.

+ 01 (một) cân điện tử màu đen đã qua sử dụng, nắp cân có in dòng chữ "POCKET SCALE".

- Tịch thu, hóa giá, sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh than, loại máy màn hình cảm ứng đã qua sử dụng. bên trong máy lắp 02 sim điện thoại số 0337.401.xxx (sim1) và số 0963.233.xxx (sim2).

- Trả lại cho La Văn C 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 09522021x mang tên La Văn C do Công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 22/6/2012.

- Trả lại cho anh Nguyễn Văn H chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 29E1-xxxxx và 01 chìa khóa xe..

[5]. Án phí:

Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo La Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Quyền kháng cáo:

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy (loại Heroine) số 48/2021/HS-ST

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về