TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH D
BẢN ÁN 87/2024/HS-ST NGÀY 22/04/2024 VỀ TỘI MUA BÁN, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân thành phố T, tỉnh D, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2024/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:
NTH (tên gọi khác: M), sinh năm 1994 tại D; thường trú: 14B/2 khu phố BĐ, phường BH, thành phố TA, tỉnh B; tạm trú: 24B NVT, khu phố BH, phường LT, thành phố TA, tỉnh B; nơi ở hiện tại: 38/6 hẻm LT38, khu phố ĐT, phường LT, thành phố TA, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ làm móng; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông NVQ, sinh năm 1965 và bà BTX, sinh năm 1965; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/10/2023, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa: Bà Lưu Thị H – Luật sư của Công ty TNHH MTV Miền Đông thuộc Đoàn luật sư tỉnh D, có mặt.
- Người làm chứng:
+ NTTT, vắng mặt.
+ TMT1, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 17 giờ ngày 21/10/2023 NTTT đến nhà của NTH đang thuê tại địa chỉ 38/6 hẻm Lái Thiêu 38, khu phố Đông Tư, phường Lái Thiêu, thành phố T, tỉnh D để chơi. Tại đây, Tuyền nhìn thấy trong phòng khách nhà H có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma tuý nên đã nói với H nếu có ma tuý tuý thì bán cho T 200.000 đồng. Nghe vậy, H đi vào phòng ngủ lấy 01 túi nylon bên trong chứa ma tuý dạng đá đưa cho T. H và T thoả thuận khi nào T sử dụng ma tuý xong sẽ trả tiền cho H. Sau đó, H chỉ cho T chỗ để bộ sử dụng ma tuý rồi đi ra ngoài, còn T cho ma tuý vừa mua vào bộ dụng cụ, dùng bật lửa hơ nóng để sử dụng một mình bắng cách hít, rồi ngủ tại phòng ngủ của H.
Đến khoảng 22 giờ 00 phút ngày 21/10/2023 H về phòng, lúc này TMT1 gọi điện cho H qua ứng dụng Messenger để hỏi mượn bộ dụng cụ ma tuý và được H đồng ý. Khi đến nhà H, T1 được H chỉ chỗ để bộ dụng cụ sử dụng ma tuý tại phòng khách. Sau đó T1 lấy trong người ma tuý để vào bộ dụng cụ, dùng bật lửa hơ nóng để sừ dụng một mình sau đó ngồi chơi với H. Đến khoảng 22 giờ 30 phút ngày 21/10/2023 cơ quan công an kiểm tra hành chính phát hiện trong phòng khách của căn nhà trên có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma tuý nên đã tiến hành lập biên bản. Quá trình làm việc, NTH khai nhận vừa bán ma tuý cho T và cho T1 mượn bộ dụng cụ để sử dụng ma tuý, đồng thời giao nộp 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thề màu trắng, cơ quan công an đã tiến hành thu giữ tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở Công an phường Lái Thiêu làm việc.
Quá trình điều tra vụ án, NTH khai nhận đã liên lạc bằng điện thoại và mua số ma tuý trên vào ngày 10/10/2023 tại khu vực ngã ba Sở Rác thuộc phường Bình Nhâm, thành phố T, tỉnh D của nam thanh niên tên H1 (ngoài 30 tuổi, cao khoảng 1,6m, nhói giọng miền nam) với giá 700.000 đồng nhằm mục đích chia nhỏ bán kiếm lời. Từ lúc H mua ma tuý về đến khi bị cơ quan công an kiểm tra, H chỉ mới bán 01 phần ma tuý cho NTTT vào ngày 21/10/2023 nhưng chưa kịp lấy tiền thì bị phát hiện. TMT1 khai nhận số ma tuý T sử dụng tại nhà của Hà trong ngày 21/10/2023 là do người bạn tên C (ở khu vực ngã ba Sở Rác thuộc phường Bình Nhâm) cho vào sáng ngày 21/10/2023.
Vật chứng thu giữ:
- 01 bộ sử dụng ma tuý gồm 01 bình nhựa trong dạng trụ cao 15 cm có nắp màu vàng, bên trên có nắp 01 ống hút và 01 ống thuỷ tinh đầu tròn, 01 bật lửa màu tím có tia lửa khè.
- 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa tinh thề màu trắng, - 20 túi nylon miệng kéo dính bên trong không chứa gì.
- 01 điện thoại Iphone 12 Pro màu trắng, số máy MGMM3VN/A, số sêri G6TF11690, bên ngoài có gắn 01 ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng trong suốt.
Tại phiếu trả lời kết quả giám định tình trạng nghiện ma tuý ngày 22/10/2023 của Trung tâm y tế thành phố T xác định NTTT và TMT1 nghiện ma tuý loại Methamphetamine; NTH không nghiện ma tuý.
Tại kết luận giám định số 584/KL-KTHS(MT) ngày 25/10/2023 của Phòng kỹ thuận hình sự Công an tỉnh D xác định mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma tuý loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,4829 gam.
Cáo trạng số 91/CT-VKS-TA ngày 02 tháng 4 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh D truy tố bị cáo NTH Hà về tội Mua bán trái phép chất ma tuý khoản 1 Điều 251 và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý quy định tại và điểm a khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma tuý và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý như cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo NTH mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý; 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung là 09 năm đến 10 năm tù.
- Về vật chứng:
Đối với 01 bộ sử dụng ma tuý gồm 01 bình nhựa trong dạng trụ cao 15 cm có nắp màu vàng, bên trên có nắp 01 ống hút và 01 ống thuỷ tinh đầu tròn, 01 bật lửa màu tím có tia lửa khè; 01 túi nylon miệng kéo dính bên, 20 túi nylon miệng kéo dính bên trong không chứa gì là những vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại Iphone 12 Pro màu trắng, số máy MGMM3VN/A, số sêri G6TF11690, bên ngoài có gắn 01 ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng trong suốt là pH tiện dùng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với bà NTNĐ là chủ nhà cho bị cáo H thuê, quá trình điều tra xác định bà Đ không biết việc bị cáo sử dụng căn nhà thuê để tổ chức sử dụng ma tuý nên cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.
Đối với nam thanh niên tên H1 bán ma tuý cho H và nam thanh niên tên C là người cho T1 ma tuý, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch nên sẽ tiếp tục, điều tra xử lý sau.
Đối với NTTT và TMT1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người số tiền 1.500.000 đồng theo quy định khoản 1 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-Cp ngày 31/12/2021 của Chính phủ là đúng quy định.
- Người bào chữa cho bị cáo tranh luận: Thống nhất tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố. Người bào chữa chỉ trình bày các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như sau: Sau khi xảy ra dịch covid bị cáo làm kinh tế thua lỗ, gia đình khó khăn, cha đi làm thuê, mẹ ở nhà nội trợ, bị cáo thực hiện hành vi mà không suy nghĩ đến hậu quả. Quá trình bị bắt tạm giam và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hối hận dằn vặt về hành vi của mình, bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo và gia đình đã chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; có ông nội, ông ngoại là người có công. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 xét xử cho bị cáo được hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo sớm có cơ hội trở về làm công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.
- Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo NTH khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 21/10/2023 tại nhà địa chỉ 38/6 khu phố Đông Tư, phường Lái Thiêu, thành phố T, D, NTH có hành vi tàng trữ 2,4829 gam ma tuý loại Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời, ngoài ra bị cáo Hà còn bán cho NTTT nhằm thu lợi bất chính 200.000 đồng, cung cấp địa điểm và công cụ cho NTTT và TMT1 sử dụng ma tuý. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm a khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh D truy tố bị cáo NTH về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm a khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Bộ luật Hình sự 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội tại địa pH, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, tạo gánh nặng cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được tác hại của ma túy, biết rằng việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý và mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị trừng trị nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt - Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có ông nội, ông ngoại người có công cách mạng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đối với bị cáo NTH là phù hợp nên chấp nhận.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ nên chấp nhận.
[5]. Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 bộ sử dụng ma tuý gồm 01 bình nhựa trong dạng trụ cao 15 cm có nắp màu vàng, bên trên có nắp 01 ống hút và 01 ống thuỷ tinh đầu tròn, 01 bật lửa có dạng tia lửa khè màu tím; 20 túi nylon trong suốt miệng kéo dính là những vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại Iphone 12 Pro màu trắng, số máy MGMM3VN/A, số sêri G6TF11690, bên ngoài có gắn 01 ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng trong suốt là pH tiện dùng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với bà NTNĐ là chủ nhà cho bị cáo Hà thuê, quá trình điều tra xác định bà Đ không biết việc bị cáo sử dụng căn nhà thuê để tổ chức sử dụng ma tuý nên cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.
Đối với nam thanh niên tên Hùng bán ma tuý cho Hà và nam thanh niên tên C là người cho T1 ma tuý, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch nên sẽ tiếp tục, điều tra xử lý sau.
Đối với NTTT và TMT1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người số tiền 1.500.000 đồng theo quy định khoản 1 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-Cp ngày 31/12/2021 của Chính phủ là đúng quy định.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 251, điểm a khoản 2 Điều 255; Điều 47; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo NTH phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo NTH 02 (hai) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 07 (bảy) năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/10/2023.
2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ sử dụng ma tuý gồm 01 bình nhựa trong dạng trụ cao 15 cm có nắp màu vàng, bên trên có nắp 01 ống hút và 01 ống thuỷ tinh đầu tròn, 01 bật lửa có dạng tia lửa khè màu tím; 01 bì thư được niêm phong ghi vụ số 584/PC09 (là mẫu vật hoàn lại sau giám định).
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại Iphone 12 Pro màu trắng, số máy MGMM3VN/A, số sêri G6TF11690, bên ngoài có gắn 01 ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng trong suốt (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/3/2024.).
3. Về án phí: Buộc bị cáo NTH phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án về tội mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 87/2024/HS-ST
Số hiệu: | 87/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về