TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 210/2024/HS-PT NGÀY 20/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 3 năm 2024 tại phòng xét xử trực tuyến thuộc trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 106/2024/TLPT-HS ngày 29 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Minh P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 358/2023/HS-ST ngày 15 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, H.
* Bị cáo có kháng cáo:
NGUYỄN MINH P, sinh ngày 15/9/20XX tại T B; ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm X, thôn V X, xã Đ P, huyện T H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/4/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố H, có mặt.
Ngoài ra còn có 04 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ 20 phút ngày 19/04/2023, Công an phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm nhận được tin báo của quần chúng nhân dân nên kiểm tra hành chính tại phòng trọ 201 nhà số 8, ngõ 49 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H. Khi kiểm tra tại phòng có 08 đối tượng gồm: Trịnh Thị H, Hoàng Thị V, Hoàng Thị H1, Hoàng Thị M, Nghiêm Văn N (Sinh năm: 19XX; HKTT: Thôn T T, xã M T, huyện S S, H), Nguyễn Thị T (Sinh năm: 19XX; HKTT: Thôn T T, xã M T, huyện S S, H), Nguyễn Tất B (Sinh năm: 19XX; HKTT: Tổ X cụm Y, phường X L, quận T H, H), Quách Đình Q (Sinh năm: 20XX; HKTT: Thôn S L, xã Đ T, huyện Đ H, Thái Bình) có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra thu giữ trên sàn nhà 01 đĩa sứ hình tròn đường kính khoảng 30 cm bên trên mặt đĩa có chứa tinh thể màu trắng; 01 ống hút hình trụ cuốn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 thẻ ngân hàng MB Bank mang tên "HOANG THI M"; 01 loa nhãn hiệu Harmand/Kardon màu đen; 01 đèn nháy màu trắng. Tại chỗ, Trịnh Thị H khai nhận tinh thể màu trắng trên đĩa là ma tuý Ketamine, H mua của nam thanh niên có tên tài khoản zalo là "B" để sử dụng cùng nhóm bạn nhân dịp sinh nhật nhưng chưa sử dụng hết thì bị thu giữ. Công an phường Mỹ Đình 2 đã lập biên bản, tạm giữ, niêm phong tang vật, dẫn giải đối tượng về trụ sở, xử lý theo quy định. Quá trình xác minh, Công an phường Mỹ Đình 2 đã làm rõ được người giao ma túy cho Trịnh Thị H là Nguyễn Minh P. Ngày 19/04/2023, P đến Công an phường Mỹ Đình 2 đầu thú về hành vi bán ma tuý cho Trịnh Thị H.
* Vật chứng thu giữ:
- Thu giữ của Hoàng Thị V:
+ 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn bên trên mặt đĩa chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp.
+ 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuốn thành hình trụ có dính tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp.
+ 01 thẻ ngân hàng MBBank màu xanh mang tên “Hoang Thi M” có dính tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp.
+ 01 loa di động điện tử màu đen, 01 đèn nháy.
+ 01 điện thoại di động Iphone 14 promax màu vàng có gắn sim điện thoại.
- Thu giữ của Nguyễn Minh P:
+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen mang BKS: 17B8- 481XX;
+ 01 điện thoại di động Iphone 14 promax có gắn sim điện thoại.
- Thu giữ của Trịnh Thị H:
+ 01 điện thoại di động Iphone 13 promax màu xanh, có ốp màu hồng, có gắn sim điện thoại.
- Thu giữ của Hoàng Thị H1:
+ 01 điện thoại di động Iphone 11 promax màu xanh đen, có gắn sim điện thoại.
- Thu giữ của Hoàng Thị M:
+ 01 điện thoại di động Iphone 13 màu hồng, có gắn sim điện thoại - Thu giữ của Nguyễn Tất B:
+ 01 điện thoại di động Iphone 14 Promax màu đen gắn sim điện thoại.
- Thu giữ của Nghiêm Văn Nam:
+ 01 điện thoại di động apple Iphone 6S plus màu hồng.
+ 01 điện thoại di động apple Iphone 5S màu trắng.
- Thu giữ của Nguyễn Thị T:
+ 01 điện thoại di động Iphone XS màu vàng gắn sim số 034586XXXX.
- Thu giữ của Quách Đình Q:
+ 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Redminote 11.
Quá trình điều tra xác định:
Khoảng 20 giờ ngày 18/04/2023, H cùng V, M, H1, T, Nam, Q, P, Việt A (chưa xác định được nhân thân), Hồng H1 (chưa xác định được nhân thân) đi ăn tối tại quán ăn “Bếp mía mưa” ở đối diện số 112 đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H nhân dịp sinh nhật H. Cả nhóm ăn và uống rượu đến khoảng 22 giờ cùng ngày H rủ cả nhóm lên quán Bar A9 số 37 Nguyễn Hoàng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H tiếp tục sinh nhật, do say rượu nên P về trước.
Sau đó H nhắn tin với một nam thanh niên sử dụng tài khoản Zalo tên "B" (chưa xác định được nhân thân) hỏi mua 10 viên ma tuý kẹo và 02 chỉ Ketamine; "B" đồng ý bán và báo giá tổng hết 9.300.000 đồng cả ship, cả hai thống nhất giao ma túy ở quán Bar A9. H dùng số tài khoản: 598010029xxxx - ngân hàng MBbank của mình chuyển 9.300.000 đồng tiền mua ma túy đến số tài khoản 96615xxxx mang tên "PHẠM TRUNG H" ngân hàng VIB. Sau đó “B” nói chỉ lấy 9.000.000 đồng nên chuyển khoản trả lại H 300.000 đồng. “B” liên lạc với Nguyễn Minh P qua Telegram bảo P đến gốc cây vỉa hè đầu ngõ 88 phố Dịch Vọng, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, H lấy ma tuý giao cho H ở quán Bar A9 số 37 Nguyễn Hoàng và hứa trả công giao ma túy 500.000 đồng/01 đơn. P đồng ý, sau đó, điều khiển xe máy BKS: 17B8-481XX đến gốc cây gần ngõ 88 phố Dịch Vọng lấy 01 túi nilong bên trong có 10 viên ma tuý kẹo và 01 túi nilong chứa ma túy Ketamine rồi đi giao cho H tại tầng 2 quán Bar A9. H cầm số ma túy kẹo mua được chia cho nhóm bạn để sử dụng. Sau đó, Việt A liên lạc với Nguyễn Tất B rủ B đến quán bar A9, B đồng ý đi đến quán bar nghe nhạc khoảng 15 phút thì về, Hoàng Thị H1, P, Việt A cũng về trước.
Khoảng 01 giờ sáng ngày 19/04/2023 H cùng V, M, T, N, Q và Hồng H1 rủ nhau về phòng trọ của H ở phòng 201 số nhà 8, ngõ 49 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H tiếp tục sử dụng ma tuý. Tại đây, H liên lạc với Hoàng Thị H1 rủ H1 đến phòng 201 sử dụng ma túy, H1 đồng ý. Sau đó Hoàng Thị M gọi bóng cười về phòng để cả nhóm sử dụng, do không biết xào ma túy Ketamine nên H gọi P đến phòng 201 nhờ P xào Ketamine cho cả nhóm sử dụng, P đồng ý đi xe máy đến phòng trọ của H. Tại phòng 201, H lấy ma túy kẹo còn thừa trên quán Bar A9 đưa cho cả nhóm sử dụng, và lấy 01 túi ma túy Ketamine giấu trong bánh sinh nhật đưa cho P, P lấy một đĩa sứ màu trắng có sẵn trong phòng đổ hết túi Ketamine ra đĩa đốt giấy vệ sinh để làm nóng đĩa và dùng thẻ ngân hàng của M đưa xào Ketamine và kẻ sẵn các đường ke trên đĩa; H lấy 01 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng tự quấn thành tẩu hút đưa cho P đồng thời mở nhạc bằng loa kết nối Bluetooth với điện thoại, bật đèn nháy. P đặt tẩu hút lên đĩa rồi mời từng người trong nhóm sử dụng Ketamine. Đến khoảng 03h30′, Việt A rủ B cùng đi đến phòng trọ của H để chơi, tại đây H đưa đĩa Ketamine xào sẵn cho Việt A và B sử dụng, sau khi Việt A sử dụng B cầm tẩu hút cho lên mũi định hít thì thấy đắng nên xì ra không sử dụng ma túy Ketamine rồi nằm nghe nhạc sử dụng bóng cười ngủ tại đây, khoảng 05 giờ sáng thì P, Việt A và Hồng H1 đi về trước.
Đến 06h20’ cùng ngày, do hết ma tuý nên H bảo với H1, M, V tiếp tục mua ma tuý để sử dụng thì mọi người đều đồng ý (lúc này T, Nam, B, Q đang ngủ). H tiếp tục đặt mua 01 chỉ Ketamine của “B” được báo giá hết 3.300.000 đồng cả công ship, H đồng ý, do không đủ tiền trong tài khoản nên H hỏi vay Hoàng Thị H1 3.000.000 đồng để mua ma tuý; H1 đồng ý sử dụng số tài khoản 7807231000868 mở tại ngân hàng Agribank của mình chuyển tiền đến số tài khoản ngân hàng MBbank của H 3.000.000 đồng. Sau đó, H chuyển 3.300.000 đồng tiền mua ma túy đến tài khoản "PHAM TRUNG H" mở tại ngân hàng VIB và thỏa thuận với Hiếu giao ma túy ở phòng 201 số nhà 8, ngõ 49 Lê Đức Thọ, P. Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H. Hiếu liên lạc với P qua Telegram bảo P đến gốc cây trên đường Dịch Vọng lấy ma tuý giao đến phòng trọ cho H, P đồng ý đi xe máy từ phòng trọ ở Doãn Kế Thiện đến gốc cây trước đó lấy 01 túi nilong chứa ma tuý Ketamine để sẵn cầm đến phòng trọ giao cho H. Tại phòng 201, H nhờ P xảo ma túy Ketamine, P đồng ý và đổ toàn bộ số Ketamine trong túi ra đĩa xào cho H và nhóm bạn sử dụng rồi đi về. Đến 08 giờ 20 cùng ngày, tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 2 kiểm tra phát hiện bắt giữ các đối tượng trên. Ngày 19/04/2023, Nguyễn Minh P đến Công an phường Mỹ Đình 2 đầu thú về hành vi bán ma tuý cho Trịnh Thị H.
Tại Kết luận giám định số 2659/KLGĐ-PC09 ngày 28/04/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, xác định: Tinh thể màu trắng bên trên 01 đĩa sứ hình tròn đường kính 30cm là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,720 gam. 01 ống hút hình trụ cuốn bằng tờ tiền 10.000 đồng, 01 thẻ ngân hàng MB Bank mang tên “Hoang Thi M” đều có dính ma túy loại Ketamine.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 358/2023/HS-ST ngày 15 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh P phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 55; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P 07 năm 09 tháng tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả hai tội là 16 năm 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/4/2023.
- Ngoài ra bản án còn xử phạt các bị cáo khác từ 7 năm 9 tháng đến 9 năm tù, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/12/2023 bị cáo Nguyễn Minh P có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Minh P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Bị cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do mức án sơ thẩm xử nặng mong được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhân thân của bị cáo, xem xét kháng cáo của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh P và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, cụ thể:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 55; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Minh P từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả hai tội là từ 13 năm đến 14 năm tù.
- Các quyết định khác có hiệu lực pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh P đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Minh P tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo khác, những người làm chứng, bản kết luận giám định, tang vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08h20′ ngày 19/04/2023, tại phòng trọ 201 nhà số 8, ngõ 49 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H, Trịnh Thị H đã có hành vi rủ rê các bị cáo Hoàng Thị V, Hoàng Thị H1, Hoàng Thị M đã cùng nhau góp tiền để mua ma túy để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Trịnh Thị H là người khởi xướng, đặt mua 3.300.000 đồng ma túy Ketamine do Nguyễn Minh P mang đến (P được hưởng lợi 500.000 đồng tiền công). Trước đó vào khoảng 21h ngày 18/4/2023, tại quán Bar A9, ở số 37 Nguyễn Hoàng, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H Trịnh Thị H đã có hành vi mua 9.300.000 đồng tiền 10 viên kẹo ma túy tổng hợp và nửa chỉ ma túy Ketamine do Nguyễn Minh P mang đến (P được hưởng lợi 500.000 đồng tiền công) để tổ chức cho Hoàng Thị H1, Hoàng Thị V, Nguyễn Thị T, Quách Đình Q sử dụng trái phép chất ma túy. Sau đó, khoảng 01h sáng ngày 19/4/2023, tại phòng trọ 201 nhà số 8, ngõ 49 Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, H, Nguyễn Minh P đã thực hiện hành vi xào ma túy ketamine, mở loa đài để tổ chức cho Trịnh Thị H, Hoàng Thị H1, Hoàng Thị M, Nguyễn Minh P, Nghiêm Văn Nam, Nguyễn Thị T, Quách Đình Q cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Minh P đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 và điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án; xem xét tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án tiền sự; bị cáo ra đầu thú và gia đình có công với Cách mạng cụ Nội là Nguyễn Văn Thẩm được Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang, ông Nội Nguyễn Văn P được Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy chương kháng chiến Hạng Nhì vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông Ngoại Nguyễn Văn T được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đã xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P 07 năm 09 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là quá nghiêm khắc. Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội; số lượng ma túy bị cáo mua bán không lớn; bị cáo phạm tội đều với vai trò giúp sức, giản đơn; bản thân có hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh P, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo được yên tâm cải tạo sớm được trở về hòa nhập với gia đình và xã hội.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
[5] Bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự,
1. Sửa một phần bản án sơ thẩm:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P 07 (Bẩy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, 07 (Bẩy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2023.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh P không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 210/2024/HS-PT
Số hiệu: | 210/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về