Bản án về tội mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGUYÊN BÌNH, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 14/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Phùng Mùi P (Tên gọi khác: Không có) sinh ngày 01/12/1968 tại Phan Thanh, huyện N, tỉnh C.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm L, xã M huyện N, tỉnh C; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Dao; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Con ông Phùng Sùn C (đã chết) và bà Lý Mùi N (đã chết); Chồng: Đặng Quầy Ph, sinh năm 1963 (đã chết), Con: bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1991; Anh chị em: bị cáo có 06 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ ba. Tiền sự; Tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam, tạm giữ từ ngày 16/10/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện N. Có mặt.

Người làm chứng:

- Bàn Văn H, sinh năm 2004; Địa chỉ: Xóm Phiêng Pha, xã M huyện N, tỉnh C. Có mặt.

- Đặng Tòn D, sinh năm 1993; Địa chỉ: Xóm L, xã M huyện N, tỉnh C. Vắng mặt.

- Nguyễn Văn P, sinh năm 1964; Địa chỉ: Xóm L, xã M huyện N, tỉnh C. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 10 phút, ngày 16 tháng 10 năm 2022, tổ Công tác đội điều tra tổng hợp Công an huyện N phối hợp với Công an xã M huyện N làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại xóm L, xã M huyện N, tỉnh C, phát hiện bắt quả tang Bàn Văn H (sinh năm 2004, trú tại Phiêng Pha, MN, C) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. H tự giác lấy từ trong túi quần phía sau đang mặc giao nộp cho Công an 01 gói ni lon màu trắng (bên trong có ba gói nhỏ trong cùng đều chứa chất bột màu trắng H khai là Heroine),(đã niêm phong theo quy định).

Vào hồi 17 giờ 10 phút, ngày 16 tháng 10 năm 2022 tổ Công tác Công an huyện N tiếp tục làm việc tại xóm L, xã M huyện N, tỉnh C, phát hiện bắt quả tang Đặng Tòn D (sinh năm 1993, trú tại L, MN, C) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, D tự giác lấy từ trong túi quần ra giao nộp cho Công an 01 gói bằng giấy vệ sinh (bên trong có hai gói nhỏ trong cùng có chứa chất bột màu trắng D khai là Heroine) (đã được niêm phong theo quy định).

Tại cơ quan điều tra, Bàn Văn H và Đặng Tòn D khai nhận số bột màu trắng mà cơ quan Công an thu giữ là ma túy loại Heroine hai người đều mua với Phùng Mùi P (sinh năm 1968, trú tại L, MN, C) vào chiều ngày 16 tháng 10 năm 2022 tại nhà của P. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phùng Mùi P . P tự nguyện giao nộp: Một vỏ bao thuốc lá trên vỏ có ghi chữ “VOVERSYL”, mở lọ ra bên trong có 6 gói nhỏ trong cùng đều có chứa chất bột màu trắng, (P khai là Heroine); Một điện thoại di động bàn phím nhãn hiệu ACE màu xanh dương cam; 2.000.000 đồng và 01con dao có cán bằng gỗ, lưỡi kim loại sáng màu có đầu nhọn dài khoảng 20 centimet, rộng khoảng 2 centimet.

Hồi 18 giờ 00 phút, ngày 16/10/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N phối hợp với thành phần tham gia tiến hành mở niêm phong để cân xác định khối lượng vật chứng, Kết quả: Vật chứng Đặng Tòn D có khối lượng là 0,0313 gam (không phẩy không ba một ba gam); Vật chứng Bàn Văn H có khối lượng là 0,0560 gam (không phẩy không năm sáu không gam). Vật chứng của Phùng Mùi P có khối lượng là 0,1317 gam (không phẩy một ba một bảy gam). Tại kết luận giám định số 338; 342, 346 ngày 28, 29/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định vụ Đặng Tòn D; Bàn Văn H; Phùng Mùi P là ma túy, loại: Heroine.

Tại cơ quan điều tra, Phùng Mùi P khai nhận: Do cần tiền để chi tiêu hàng ngày nên P đã đi mua ma tuý về để bán kiếm lời. Ngày 13/10/2022 P đi đến huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn tìm mua Heroine, thấy một người đàn ông không quen biết P đến và hỏi mua 1.000.000 đồng Heroin được 01 gói. Sau khi mua được ma túy, P mang về nhà chia thành 16 gói nhỏ mục đích để bán kiếm lời.

Từ ngày 14 tháng 10 năm 2022 đến ngày 16 tháng 10 năm 2022, P cung cấp cho ông Nguyễn Văn P, (sinh năm 1964 trú tại xóm L, xã M huyện N, tỉnh C) là người chung sống cùng nhà với P mỗi ngày một gói nhỏ Heroine để sử dụng (tổng 03 gói nhỏ). P không được hưởng lợi gì. P khai nhận phù hợp với P, khi được ma tuý P đã sử dụng bằng hình thức hít ngay tại nhà chung của P và P. Ngoài ra P đã bán ma túy tại nhà cho những người sau: Bán cho Đặng Tòn D, (sinh năm 1993 trú tại: xóm L, xã M huyện N, C ) hai lần vào sáng và chiều ngày 16/10/ 2022 mỗi lần bán hai gói với giá 200.000 đồng (tổng 04 gói, 400.000 đồng); bán cho Bàn Văn H, (sinh năm 2004 trú tại: Xóm Phiêng Pha, xã M huyện N, C) một lần vào chiều ngày 16/10/2022. Số lượng ba gói nhỏ ma túy với giá 300.000 đồng.

Các đồ vật tạm giữ không liên quan đến vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho Đặng Tòn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; trả cho Bàn Văn H 01 điện thoại di động loại màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO Y21; Trả lại cho Hoàng Vần Pu, (sinh năm 2002, trú tại: Xóm Nặm Kim, xã Ca Thành, huyện N, tỉnh C) 01 xe mô tô màu xanh - đen, nhãn hiệu HONDA WINNER mang biển kiểm soát: 11B1 - xxxxx (do Bàn Văn H mượn).

Quá trình điều tra, Phùng Mùi P thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Lời khai của Phùng Mùi P phù hợp với lời khai của D, H, P và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo Phùng Mùi P đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh C truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKSNB ngày 16 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh C truy tố bị cáo Phùng Mùi P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh C vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phùng Mùi P về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phùng Mùi P  phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phùng Mùi P từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phùng Mùi P từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điều 55 để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.

Truy thu số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) đối với bị cáo Phùng Mùi P, đây là số tiền bị cáo bán ma túy mà có.

- Về hình phạt bổ sung: Không

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai,bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tình tiết định khung của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án như: Lời khai của bị cáo và người làm chứng tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an xã Vũ Nông, huyện N, tỉnh C lập hồi 16 giờ 10 phút và 17 giờ 20 phút ngày 16 tháng 10 năm 2022 thu giữ của Đặng Tòn D có khối lượng là 0,0313 gam (không phẩy không ba một ba gam); Vật chứng Bàn Văn H có khối lượng là 0,0560 gam (không phẩy không năm sáu không gam); Biên bản khám xét do Công an huyện N, tỉnh C lập hồi 19 giờ 05 phút ngày 16 tháng 10 năm 2022 thu giữ của Phùng Mùi P  0,1317 gam (không phẩy một ba một bảy gam); Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh C tiến hành lập hồi 18 giờ 00 phút, 18 giờ 20 phút ngày 16/10/2022 và 08 giờ 00 phút ngày 17/10/2022; Kết luận giám định số: 346/KL-KTHS ngày 29/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh C. Từ các tài liệu, chứng cứ nêu trên đã có đủ căn cứ kết luận:

Vào tháng 10 năm 2022, Phùng Mùi P đã mua ma túy về để bán lại kiếm lời. Trong ngày 16/10/2022 P bán cho Đặng Tòn D hai lần (04 gói), Bàn Văn H một lần (03 gói) ngay tại nhà của P, với giá 100.000 đồng/01 gói ma tuý, P đã thu lợi từ việc bán trái phép chất ma túy là 700.000 đồng. Ngoài ra, từ ngày 14 tháng 10 năm 2022 đến ngày 16 tháng 10 năm 2022, P cung cấp 03 gói Heroine cho Nguyễn Văn P sử dụng trái phép. Khám xét khẩn cấp thu giữ của P 06 gói Heroin có khối lượng là 0,1317 gam (không phẩy một ba một bảy gam) để bán. Do đó Phùng Mùi P phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS; và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý theo điểm a khoản 2 Điều 255 BLHS.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Phùng Mùi P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị:                   

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phùng Mùi P từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phùng Mùi P từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điều 55 để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.

Tịch thu xung quỹ Nhà nước số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) đối với bị cáo Phùng Mùi P, đây là số tiền bị cáo bán ma túy mà có.

Hội đồng xét xử nhận thấy, mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

- Về tình tiết tăng nặng:

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa, các bị cáo tỏ ra thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình, do đó cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo Phùng Mùi P là rất nghiêm trọng, bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nhiều lần đối với nhiều người, khung hình phạt của các tội này từ 07-15 năm tù. Bị cáo Phùng Mùi P nhận thức rõ Mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, trực tiếp làm gia tăng tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự, gây xôn xao dư luận, khiến quần chúng nhân dân bất bình, lên án.

Căn cứ hành vi phạm tội, các tình tiết định khung và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội.

[4] Các nhận định khác:

Trong vụ án này, đối với người đàn ông bán ma túy cho Phùng Mùi P.

Quá trình điều tra không biết họ, tên, địa chỉ cụ thể. Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý trong vụ án khác.

Đối với Đặng Tòn D và Bàn Văn H mua Heroine với Phùng Mùi P để bản thân sử dụng, khối lượng Heroine thu giữ được dưới 0,1 gam, D và H chưa có tiền án, tiền sự về tội phạm ma túy; Đối với Nguyễn Văn P, được Phùng Mùi P cung cấp ma túy cho để sử dụng. Hành vi của H, D, P chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh C ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

- Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Phùng Mùi P không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì thư ghi: “Vật chứng thu giữ vụ Phùng Mùi P, SN 1968, trú tại: xóm L, xã M huyện N, tỉnh C có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 16/10/2022”, mặt sau có các chữ ký và đóng dấu giáp lai của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N;

+ 01 (một) con dao có cán bằng gỗ, lưỡi kim loại sáng màu được mài sắc một bên, dao có đầu nhọn dài, có kích thước dài khoảng 20 cm, rộng khoảng 02 cm.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng nhãn hiệu ACE màu xanh dương có viền cam, loại bàn phím bấm, có số IMEI: 359053913030697;

Chiếc điện thoại này là công cụ phương tiện mà bị cáo sử dụng để trao đổi, mua bán ma túy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) trong một phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “tài liệu giám định (tiền) trong vụ Phùng Mùi P Mua bán trái phép chất ma túy”, mặt sau có các chữ ký và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C, số tiền niêm phong là 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Đây là số tiền bị cáo bán ma túy mà có.

- Trả lại cho bị cáo Phùng Mùi P số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) trong một phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “tài liệu giám định (tiền) trong vụ Phùng Mùi P Mua bán trái phép chất ma túy”, mặt sau có các chữ ký và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C, số tiền niêm phong là 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phùng Mùi P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm a khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phùng Mùi P 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Phùng Mùi P phải chấp hành chung của cả hai tội là 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giam, tạm giữ là ngày 16/10/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì thư ghi: “Vật chứng thu giữ vụ Phùng Mùi P, SN 1968, trú tại: xóm L, xã M huyện N, tỉnh C có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 16/10/2022”, mặt sau có các chữ ký và đóng dấu giáp lai của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N;

+ 01 (một) con dao có cán bằng gỗ, lưỡi kim loại sáng màu được mài sắc một bên, dao có đầu nhọn dài, có kích thước dài khoảng 20 cm, rộng khoảng 02 cm.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng nhãn hiệu ACE màu xanh dương có viền cam, loại bàn phím bấm, có số IMEI: 359053913030697;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) trong một phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “tài liệu giám định (tiền) trong vụ Phùng Mùi P Mua bán trái phép chất ma túy”, mặt sau có các chữ ký và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C, số tiền niêm phong là 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

- Trả lại cho bị cáo Phùng Mùi P số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) trong một phong bì thư được niêm phong, mặt trước phong bì ghi “tài liệu giám định (tiền) trong vụ Phùng Mùi P Mua bán trái phép chất ma túy”, mặt sau có các chữ ký và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C, số tiền niêm phong là 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Số vật chứng trên đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện N tỉnh C theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản số 14 ngày 17/3/2023.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phùng Mùi P phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo quyền kháng cáo cho bị cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nguyên Bình - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về