Bản án về tội môi giới mại dâm số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 25/04/2023 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 25/4/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2023/TLST-HS, ngày 31 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2023/QĐXXST- HS, ngày 14 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ma Thị T, sinh ngày 10/10/1976, tại Yên S, Tuyên Quang. Nơi ĐKHKTT: Tổ 2, phường Tân H, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Nơi tạm trú và chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã V, huyện S, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ma Văn V, sinh năm 1952 và bà Hà Thị G, sinh năm 1951; Chồng: Nông Đức T, sinh năm 1973; Con: Có 02 con, cùng sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Lục Thị C, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn T, xã K, huyện Y, tỉnh T. Vắng mặt.

+ Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện Y, tỉnh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối năm 2021, Ma Thị T, sinh năm 1976, trú tại tổ 2, phường Tân H, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở quán masage, (tẩm quất, xoa bóp) tên “Toàn T” do T làm chủ đăng ký kinh doanh tại thôn C, xã Vĩnh L, Sơn Dương. Trong quá trình kinh doanh, T thỏa thuận với Lục Thị C, sinh năm 1990, trú tại thôn Tân Minh, xã Kiến Thiết, huyện Yên S (nhân viên tại quán) về việc nếu có đối tượng nam giới đến hỏi mua bán dâm (quan hệ tình dục) thì T sẽ giới thiệu khách cho C để bán dâm với số tiền 600.000 đồng/lần, T trả cho C 500.000 đồng, T được hưởng 100.000 đồng.

Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 16/01/2023, Hoàng Văn T, sinh năm 1994, trú tại thôn Bum Kẹn, xã Hùng Lợi, huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang và Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1991, trú tại thôn Đồng Dài, xã Thượng A, huyện Sơn Dương đến quán của T để tẩm quất. Sau đó, T đặt vấn đề với T về việc muốn mua bán dâm với C thì T đồng ý, hai bên thỏa thuận số tiền mua bán dâm là 600.000 đồng. T đưa cho T số tiền trên, T bảo C đi bán dâm cho T, C đồng ý. T đưa cho C 500.000 đồng là tiền bán dâm của C còn giữ lại 100.000 đồng là tiền môi giới của T. Sau đó, C và T đến nhà nghỉ Hoa L (chủ nhà nghỉ là Đỗ Gia H) tại thôn Đất Đỏ, xã Vĩnh L, huyện Sơn Dương vào phòng 203 của nhà nghỉ để thực hiện việc mua bán dâm. Hồi 20 giờ 10 phút cùng ngày, khi T và C đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương kiểm tra phát hiện và lập biên bản sự việc.

Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã thu giữ số tiền 600.000 đồng (Trong đó 500.000 đồng do C giao nộp; 100.000 đồng do T giao nộp).

Từ nội dung trên, tại Cáo trạng số 53/CT-VKSSD, ngày 31/3/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Ma Thị T về Tội môi giới mại dâm, quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Ma Thị T phạm Tội môi giới mại dâm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt Ma Thị T từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách của án treo; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước tiền 600.000 đồng.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh tụng, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm; vật chứng đã thu giữ; lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 19 giờ 50 phút ngày 16/01/2023, Ma Thị T, sinh ngày 10/10/1976, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 2, phường Tân H, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Nơi tạm trú và chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã Vĩnh L, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi làm trung gian dẫn dắt để cho Lục Thị C, sinh năm 1990, trú tại thôn Tân Minh, xã Kiến Thiết, huyện Yên S thực hiện việc mua bán dâm với Hoàng Văn T, sinh năm 1994, trú tại thôn Bum Kẹn, xã Hùng Lợi, huyện Yên S tại nhà nghỉ Hoa L (chủ nhà nghỉ là Đỗ Gia H) thuộc thôn Đất Đỏ, xã Vĩnh L, huyện Sơn Dương với số tiền mua bán dâm là 600.000 đồng (trong đó C được hưởng 500.000 đồng, T được hưởng 100.000 đồng).

Hành vi của Ma Thị T đã phạm vào Tội môi giới mại dâm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như cáo trạng là có căn cứ pháp luật.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về mức án Viện kiểm sát đề nghị:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng, nếp sống văn minh, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhằm cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định rõ ràng. Để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước, Hội đồng xét xử thấy không cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam, mà cho bị cáo hưởng án treo, đồng thời ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ răn đe, giáo dục.

Xét bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 600.000 đồng (trong đó C giao nộp 500.000 đồng, T giao nộp 100.000 đồng) là tiền mua bán dâm, tiền có được do phạm tội, nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5] Các vấn đề khác: Đối với hành vi mua bán dâm của Hoàng Văn T và Lục Thị C, ngày 19/01/2023 Công an huyện Sơn Dương đã xử phạt vi phạm hành chính đối với T và C bằng hình thức phạt tiền; đối với Đỗ Gia H, sinh năm 1984, trú tại thôn Gò Hu, xã Vĩnh L là chủ nhà nghỉ Hoa L thuộc thôn Đất Đỏ, xã Vĩnh L không có hành vi chứa mại dâm. Nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ma Thị T phạm Tội môi giới mại dâm.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Ma Thị T 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thử thách 18 (mười tám) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/4/2023).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Tân H, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách;

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng), tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đã chuyển vào tài khoản số 3949.0.1064844.X của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Sơn Dương.

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (25/4/2023); người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về