Bản án về tội môi giới mại dâm số 261/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 261/2020/HS-PT NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/2020/TLPT-HS ngày 01/4/2020 đối với bị cáo Lê Thụy Hoàng H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thụy Hoàng H, sinh năm 1989 tại Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp TT, xã PX, huyện TP, tỉnh I; nghề nghiệp: quản lý nhà hàng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn J và bà Nguyễn Thị Bạch W; có chồng tên Phan Văn F (chết) và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 14/9/2019 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 13/9/2019, các ông Phạm Văn T, Nguyễn Xuân P cùng một số người bạn đến uống bia, hát karaoke tại phòng VIP7 nhà hàng K , số 01 A, phường B, Quận 1 và được Lê Thụy Hoàng H là quản lý của nhà hàng gọi 06 tiếp viên nữ của nhà hàng vào phòng VIP7 phục vụ nhóm của T và P, trong đó có tiếp viên Nguyễn Thảo Minh C và Hồ Thị N nên T cho H số tiền 500.000 đồng để cảm ơn về việc gọi tiếp viên phục vụ nhóm của T. Đến khoảng 23 giờ 40 phút cùng ngày, T và P có nhu cầu mua dâm tiếp viên ngồi bàn nên T gặp H để yêu cầu thì được H báo giá tiền mua dâm là 4.000.000 đồng/1 người/1 lần và T đồng ý. H đã điều Nguyễn Thảo Minh C và Hồ Thị N đi bán dâm cho T và P. T đưa cho H 500.000 đồng tiền công môi giới và 8.000.000 đồng tiền mua dâm C và N, H nhận tiền và đưa lại cho C và N mỗi người 4.000.000 đồng tiền bán dâm. Sau đó, T, P, N, C đến thuê phòng tại khách sạn Lucky Star, số 01 Đ, phường L, Quận 1 để tiến hành mua bán dâm, T và C thuê phòng M02, P và N thuê phòng 702.

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 14/9/2019, khi T, C, P, N đang tiến hành mua bán dâm thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Quận 1 tiến hành kiểm tra, phát hiện nên đưa về trụ sở Công an phường L, Quận 1 lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 và đưa Lê Thụy Hoàng H về Công an Quận 1 xử lý. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 1, Lê Thụy Hoàng H thừa nhận hành vi môi giới cho T và P mua dâm N và C để hưởng lợi. Lời khai của H phù hợp với lời khai của các đối tượng T, P, N, C và các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra thu thập được.

Vật chứng thu giữ: 8.500.000 đồng là tiền mua, bán dâm và tiền môi giới mua bán dâm; 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su ghi hiệu Durex (thu giữ tại phòng M02 của T – C); 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su ghi hiệu Durex (thu giữ tại phòng 702 của P - N).

Thu giữ của Lê Thụy Hoàng H: 01 điện thoại di động hiệu IPhone XS Max và 1.000.000 đồng.

Thu giữ của Nguyễn Thảo Minh C: 01 điện thoại đi động hiệu Iphone X và 01 điện thoại đi động hiệu Nokia.

Thu giữ của Hồ Thị N: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus.

Tất cả hiện đang được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 tạm giữ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Thụy Hoàng H phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 khoản 4 Điều 328, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thụy Hoàng H 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/9/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 25/02/2020.

Phạt bị cáo số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/3/2020 bị cáo Lê Thụy Hoàng H kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt tù và xin được hưởng án treo do là lao dộng duy nhất trong gia đình, để lo cho con nhỏ mới 15 tháng tuổi.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thụy Hoàng H khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận định án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo là không có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt tù và được hưởng án treo để nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Lê Thụy Hoàng H là quản lý của nhà hàng K Night, địa chỉ 60 Bùi Thị Xuân, phường Bến Thành, Quận 1. Khoảng 22 giờ ngày 13/9/2019 khi khách là Phạm Văn T và Nguyễn Xuân P có nhu cầu mua dâm với Nguyễn Thảo Minh C và Hồ Thị N là tiếp viên ngồi bàn. Nên T gặp bị cáo H để yêu cầu mua dâm thì được bị cáo H báo giá tiền mua dâm là 4.000.000 đồng/1 người/1 lần và T đồng ý. Bị cáo H đã điều Nguyễn Thảo Minh C và Hồ Thị N đi bán dâm cho T và P. T đưa cho H 500.000 đồng tiền công môi giới và 8.000.000 đồng tiền mua dâm C và N, H nhận tiền và đưa lại cho C và N mỗi người 4.000.000 đồng tiền bán dâm. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 14/9/2019 khi T và C, P và N đang tiến hành mua bán dâm tại hai phòng của khách sạn Lucky Star địa chỉ 01 Đ, Phường L, Quận 1 thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Quận 1 tiến hành kiểm tra lập biên bản vụ việc.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo Lê Thụy Hoàng H về tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Và khi lượng hình cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự, có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Với lập luận trên đây, và bị cáo không có tình tiết mới nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên và giữ nguyên bản án sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về án phí đối với bị cáo: Phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ điểm đ khoản 2 khoản 4 Điều 328, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thụy Hoàng H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Lê Thụy Hoàng H 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/9/2019.

Phạt bổ sung bị cáo H 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Về án phí đối với bị cáo Lê Thụy Hoàng H: Phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 261/2020/HS-PT

Số hiệu:261/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về