Bản án về tội môi giới mại dâm số 23/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 29 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2023/ TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

Hà Văn T, sinh ngày 04 tháng 8 năm 1990 tại tỉnh Q; Nơi cư trú: thôn Đồng Châu, xã Tiên Lãng, huyện T, tỉnh Q; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn T và bà Lê Thị P; vợ: Trương Thị T, đã ly hôn, có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: năm 2010 bị TAND huyện T xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/10/2023. Hiện tạm giam, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Đỗ Thị T1, trú tại: phố Đông Tiến 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q, có đơn xin xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Văn T biết Lò Thị C và Nguyễn Thị L có nhu cầu bán dâm nên bảo với C và L, nếu có khách hỏi mua dâm thì T sẽ nhận để cho C và L đi bán dâm, T thu tiền sau đó đưa lại cho C 150.000đ (vì Chương ăn ở với T) và đưa cho L 300.000đ. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/10/2023, khi T đang ở phòng trọ cùng với C thì nhận được cuộc gọi điện thoại của Phạm Ngọc H bảo sắp xếp cho 02 gái bán dâm đến nhà nghỉ Kiên Hòa thuộc phố Đông Tiến 1, thị trấn T, huyện T để mua dâm, T đồng ý và điều khiển xe môtô biển số 14N1-xxxxx chở C đến nhà nghỉ thì gặp H và được H đưa 1.000.000đ để trả tiền mua dâm hai người. Sau đó H bảo C lên phòng 202 để bán dâm cho Bùi Đức T2 (là bạn H), còn T gọi điện cho L đến nhưng do điện thoại hết tiền không gọi được nên T nhờ chị Đỗ Thị T1 (là chủ nhà) gọi hộ, nhưng không bảo cho chị T biết là gọi L đến nhà nghỉ để bán dâm. Một lúc sau L đến nhà nghỉ thì T bảo L lên phòng 201 để bán dâm cho H, còn T ngồi ở tầng 1 chờ. Đến 21 giờ cùng ngày, khi H, L, T2, C đang thực hiện mua bán dâm thì bị Công an huyện T kiểm tra, phát hiện, giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với T và thu giữ vật chứng gồm: 01 bao cao su, hình vuông, kích thước cạnh 5,7cm, chưa qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung gắn sim số 0869.072.xxx của Phạm Ngọc H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 gắn sim số 0338.245.xxx của Nguyễn Thị L (thu tại phòng 201). Thu giữ 01 bao cao su màu trắng, đã qua sử dụng;

01 vỏ bao cao su, hình vuông, kích thước cạnh 5,7cm, vỏ bao bị rách 01 góc; 01 điện thoại nhãn hiệu VIVO gắn 02 sim số 0866.842.xxx, 0984.664.xxxcủa Hà Văn T (thu tại phòng 202) và xe môtô biển số 14N1-xxxxx.

Tại Cơ quan điều tra Hà Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, ngoài ra T còn khai đây là lần đầu tiên T môi giới bán dâm cho C và L.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 chiếc bao cao su chưa sử dụng, 01 chiếc bao cao su màu trắng đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su không có giá trị sử dụng Cơ quan điều tra đã tiêu hủy.

- Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu của H và L, Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu.

- Xe môtô biển số 14N1-xxxxx quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của anh Tô Minh T3, anh T3 không biết việc T mượn để chở gái đi bán dâm, nên cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 14/11/2023 của VKSND huyện T đã truy tố Hà Văn T về tội “ Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX:

Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự; xử phạt Hà Văn T từ 36 đến 42 tháng tù.

Về vật chứng đề nghị áp dụng: điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước; 01 chiếc điện thoại di động thu giữ của T và số tiền 1.200.000đ. Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo Hà Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các đối tượng bán dâm và mua dâm là Lò Thị C, Nguyễn Thị L, Bùi Đức T2, Phạm Ngọc H, phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với tang vật đã thu giữ được.

Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 21 giờ ngày 08/10/2023, tại nhà nghỉ Kiên Hòa thuộc phố Đông Tiến 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q, Hà Văn T có hành vi làm trung gian, dẫn dắt cho Phạm Ngọc H mua dâm Nguyễn Thị L và Bùi Đức T2 mua dâm Lò Thị C, thì bị Công an huyện T phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Hà Văn T đã cấu thành tội “Môi giới mại dâm” – theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 328 Bộ luật hình sự.

Xem xét tình tiết giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo là lao động chính, có hoàn cảnh khó khăn đang một mình phải nuôi con nhỏ đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[2]. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bị cáo Hà Văn T là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Trong quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã cơ bản đảm bảo và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.

[4]. Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì nó đã trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, truyền thống và thuần phong mỹ tục của dân tộc, nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật thì mới có tác dụng để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung, làm gương cho người khác và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới đủ để cải tạo, giáo dục bị bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và tài sản gì nên không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về các vấn đề khác: Đối với 01 chiếc điện thoại di động thu giữ của T, T dùng vào việc phạm tội và đối với số tiền 1.000.000đ thu giữ của T đây là số tiền do phạm tội mà có và số tiền 200.000đ thu giữ của chị T1 nhưng chị T1 không yêu cầu được lấy lại nên tịch thu sung ngân sách nhà nước. Đối với 02 sim điện thoại không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với Bùi Đức T2, Lò Thị C, Nguyễn Thị L là những người mua bán dâm, không đủ căn cứ xử lý về hình sự, Công an huyện T đã xử phạt vi phạm hành chính; đối với Phạm Ngọc H đã chết nên không xem xét.

Đối với Đỗ Thị T1 là chủ nhà nghỉ không biết việc thuê nhà nghỉ để thực hiện hành vi mua bán dâm nên không đề cập xử lý.

[6]. Về án phí: bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Hà Văn T - Phạm tội: Môi giới mại dâm.

Căn cứ: điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51– Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Hà Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 08/10/2023.

Căn cứ: điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: số tiền 1.200.000đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V2027 màu vàng trắng (Tình trạng tang vật như biên bản bàn giao tang vật giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện T số 04/BB- CCTHADS ngày 22/11/2023 và theo biên bản giao nhận tài sản giữa Công an huyện T và Kho bạc nhà nước T, số 09/2023/BBBG-CATY ngày 09/11/2023).

Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại.

Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 điều 23

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí.

Buộc bị cáo Hà Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ điều 331; 333 – Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với chị Đỗ Thị T1 vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về