Bản án về tội môi giới mại dâm số 172/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 172/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 29/9/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh- Thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 158/2022/TLST-HS ngày 15/9/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2022/QĐXXST-HS ngày 16/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị A, sinh năm 1974; Nơi cư trú: Thôn 8, xã X, huyện Y, Thành phố Hà Nội; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Đắc A1 (Đã chết) và bà Lê Thị A2; Không có chồng; Có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2004; Theo danh chỉ bản số 380 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 16/6/2022 xác định: Tiền án, tiền sự và nhân thân: Ngày 08/4/2014, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội: Môi giới mại dâm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2017.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2022. Có mặt.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1979. Địa chỉ: Thôn B1, xã B2, huyện Y, Thành phố Hà Nội.

2. Chị Ngô Thị C, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn C1, xã C2, huyện Y, Thành phố Hà Nội.

3. Anh Đào Duy D, sinh năm 1969. Địa chỉ: Xóm D1, xã D2, huyện D3, Thành phố Hà Nội.

4. Anh Lê Minh E, sinh năm 2004. Địa chỉ: Thôn 8, xã X, huyện Y, Thành phố Hà Nội.

5. Chị Đỗ Thị Quỳnh F, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn F1, xã F2, huyện Y, Thành phố Hà Nội.

6. Chị Đoàn Thị Tâm G, sinh năm 1984. Địa chỉ: Số 19, đường G1, phường G2, thành phố G3, tỉnh Thái Nguyên.

Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cac tai liêu co trong hô sơ vu an va diên biên tai phiên toa, nôi dung vu án như sau: Hồi 11 giờ 15 phút, ngày 07/6/2022, Tổ công tác của Công an huyện Đông Anh tiến hành kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ Phố Vắng phát hiện tại phòng 202 có Nguyễn Thị B bán dâm cho Trần Văn Lâm; Tại phòng 303 có Ngô Thị C bán dâm cho Nguyễn Quang Dũng. Cả 04 đối tượng này đều khai nhận thực hiện hành vi mua, bán dâm do Nguyễn Thị A môi giới. Cơ quan điều tra tạm giữ vật chứng:

- Của Nguyễn Thị A:

+ 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo 1906 màu tím, bên trong lắp sim thuê bao số 0966325374.

+ 3.800.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

+ 01 xe máy Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 30Z7 – 5705.

+ 01 Đăng ký mô tô, xe máy số 001201, BKS: 30Z7 – 5705 mang tên Đỗ Thị Quỳnh Liêm.

- Của Ngô Thị C:

+ 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, bên trong lắp sim thuê bao số 0349958911.

+ 860.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

+ 01 xe máy Honda Wave Alpha, màu đỏ, BKS: 20L8 – 3344.

+ 01 Căn cước công dân số 001191014457 mang tên Ngô Thị C.

- Của Nguyễn Thị B:

+ 01 điện thoại nhãn hiệu Xiaomi, vỏ màu trắng, bên trong lắp sim thuê bao số 0362715238.

+ 500.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

+ 01 Căn cước công dân số 001179007227 mang tên Nguyễn Thị B.

- Của Nguyễn Quang Dũng: 01 điện thoại Nokia 105 vỏ màu đen, bên trong lắp sim thuê bao số 0988623130.

Quá trình điều tra xác định: Nguyễn Thị A không có nghề nghiệp ổn định, quen Nguyễn Thị B và Ngô Thị C qua các mối quan hệ xã hội và biết B, C thực hiện việc bán dâm. A đã nảy sinh ý định môi mại dâm cho B, C nhằm thu lợi bất chính, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Đào Duy D biết A môi giới mại dâm trên địa bàn huyện Đông Anh nên đã bảo A tìm cho D gái bán dâm. Ngày 05/6/2022, A điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 30Z7 – 5705 chở Nguyễn Thị B đến quán nước thuộc địa phận thôn Ngọc Chi, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh gặp D để giao dịch mua bán dâm. A và D thống nhất giá mua dâm là 500.000 đồng/lần/khách và tiền công môi giới cho A là 300.000 đồng. D đồng ý và đưa cho A 800.000 đồng. Sau đó, D và B mua bán dâm tại phòng 402, nhà nghỉ Hoàng An thuộc thôn Đồng Nhân, xã Hải Bối, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội. Trên đường về sau khi mua bán dâm xong, A chỉ trả cho B 400.000 đồng tiền bán dâm, cắt lại thêm 100.000 đồng tiền công môi giới từ B.

Lần thứ hai: Do cùng có nhu cầu mua dâm, Nguyễn Quang Dũng và Trần Văn Lâm bàn bạc cùng góp tiền để mua dâm. Ngày 06/6/2022, Dũng sử dụng số thuê bao 0988623130 gọi đến số thuê bao 0966325374 của A đặt vấn đề nhờ A điều cho 02 gái bán dâm để Dũng và Lâm mua dâm. A báo giá 500.000 đồng/lần/khách và tiền công môi giới là 500.000 đồng. Dũng đồng ý, rồi hai bên hẹn sáng 07/6/2022 gặp nhau. Dũng và Lâm mỗi người góp 750.000 đồng để mua dâm. Khoảng 07h ngày 07/6/2022, A điều khiển xe máy Honda Wave BKS:

30Z7– 5705 đón B và báo giá 500.000 đồng/lượt/1 khách mua dâm cho B. Khoảng 07h 30 phút cùng ngày, Dũng cùng Lâm đi ăn sáng thì gặp Hà Văn Lợi rồi cả 03 đến quán Cafe Ngói để uống nước gặp A và B. Thấy A chỉ dẫn theo một mình B, Dũng đề nghị A gọi thêm 01 gái bán dâm nữa. A đồng ý và gọi điện bảo Ngô Thị C đến quán Cafe Ngói. C đồng ý rồi một mình điều khiển xe máy Honda Wave Alpha, BKS: 20L8 - 3344 đến điểm hẹn. Tại đây, Dũng đưa cho A 1.500.000 đồng, trong đó 1.000.000 đồng là tiền mua dâm, còn 500.000 đồng là tiền công môi giới của A. A cầm tiền rồi chia cho C và B mỗi người 500.000 đồng tiền công bán dâm và giữ lại 500.000 đồng. Sau đó, A bảo B và C đi bán dâm cho Dũng và Lâm còn Lợi và A ngồi đợi tại quán. Dũng, Lâm đi taxi còn C điều khiển xe máy, BKS: 20L8 - 3344 chở B đến nhà nghỉ Phố Vắng để mua bán dâm. Khi đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì các đối tượng bị Tổ công tác của Công an huyện Đông Anh kiểm tra, phát hiện và đưa về trụ sở để làm rõ.

Đối với các hành vi mua bán dâm: Vào các ngày 08 và 22/6/2021, Công an xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Quang Dũng, Trần Văn Lâm, Đào Duy D cùng mức phạt 1.500.000 đồng về hành vi mua dâm; Nguyễn Thị B mức phạt 500.000 đồng; Ngô Thị C mức phạt 400.000 đồng cùng về hành vi bán dâm.

Đối với nhà nghỉ Hoàng An và Nhà nghỉ Phố Vắng đều có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, vào sổ lưu trú khách đến thuê phòng theo quy định, không biết các đối tượng thực hiện hành vi mua bán dâm nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave Alpha màu đỏ, BKS: 20L8 – 3344 xác minh thuộc quyền sở hữu của Ngô Thị C; 01 điện thoại nhãn hiệu Xiaomi, bên trong lắp sim thuê bao số 036271523801 là tài sản hợp pháp của Nguyễn Thị B;

01 Căn cước công dân mang tên Ngô Thị C; 01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị B là giấy tờ tùy thân, không phải là công cụ, pB tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho C và B.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 30Z7 – 5705 và đăng ký mô tô, xe máy số 001201, mang tên Đỗ Thị Quỳnh Liêm, quá trình xác minh xác định: Năm 2018, Nguyễn Thị A mua chiếc xe máy trên của chị Đỗ Thị Quỳnh Liêm nhưng đã làm thất lạc các giấy tờ mua bán trong quá trình sử dụng xe. Chiếc xe thuộc quyền sở hữu của A và đã sử dụng làm pB tiện chở B đến địa điểm giao dịch môi giới, mua bán dâm.

Đối với số tiền 3.800.000 đồng và 01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị A tạm giữ của A, quá trình điều tra xác định: Số tiền 2.900.000 đồng là tiền lương của anh Lê Minh Tân (Con trai A) gửi A giữ hộ. Đây là tài sản hợp pháp của anh Tân, 01 Căn cước công dân là giấy tờ tùy thân của A, đều không liên quan đến hành vi phạm tội của A nên Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho anh Tân.

Đối với số tiền 860.000 đồng tạm giữ của Ngô Thị C, quá trình điều tra xác định: Số tiền 360.000 đồng là tài sản hợp pháp của C, không liên quan đến hành vi phạm tội của A nên Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho C.

Còn lại số tiền 900.000 đồng, 01 Chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 30Z7 – 5705 và đăng ký xe, 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo 1906 màu tím, bên trong lắp sim thuê bao số 0966325374 tạm giữ của A; Số tiền 500.000 đồng, 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, bên trong lắp sim thuê bao số 0349958911 tạm giữ của C; Số tiền 500.000 đồng tạm giữ của B; 01 điện thoại Nokia 105 vỏ màu đen, bên trong lắp sim thuê bao số 0988623130 tạm giữ của Nguyễn Quang Dũng là vật chứng (Tiền các đối tượng thu lời bất chính và công cụ, pB tiện liên quan đến hành vi phạm tội) nên chuyển Tòa án nhân dân huyện Đông Anh để giải quyết theo thẩm quyền.

Cáo trạng sô 152/CT-VKSĐA ngay 12/9/2022 của Viện trưởng Viên kiêm sát nhân dân huy ện Đông Anh quyêt đinh truy tô : Nguyễn Thị A về tội: Môi giới mại dâm theo Điểm d, đ Khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa,

* Bị cáo Nguyễn Thị A thừa nhận toàn bộ hành vi môi giới mại dâm và hưởng lợi như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã tuy tố. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn, hối cải và mong nhận được sự khoan hồng để bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành người tốt cho xã hội.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, xác định việc truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Xử phạt: Nguyễn Thị A từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Vê xư ly vât chưng: Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước: Tổng số tiền 1.900.000 đồng; 01 Chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 30Z7 – 5705 và đăng ký xe; 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo 1906 màu tím, bên trong lắp sim thuê bao số 0966325374; 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, bên trong lắp sim thuê bao số 0349958911; 01 điện thoại Nokia 105 vỏ màu đen, bên trong lắp sim thuê bao số 0988623130 do là tiền các đối tượng thu lời bất chính và công cụ, pB tiện liên quan đến hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi và tội danh của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng, biên bản kiểm tra điện thoại, trích xuất hình ảnh liên quan, các tài liệu, chứng cứ khác tại cơ quan điều tra và kết quả tranh tụng công khai tại phiên toà. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Vào các ngày 05/6/2022 và 07/6/2022, bị cáo Nguyễn Thị A đã có các hành vi môi giới mại dâm, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Ngày 05/6/2022 tại thôn Ngọc Chi, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, TP Hà Nội, bị cáo Nguyễn Thị A có hành vi môi giới mại dâm cho Đào Duy D và Nguyễn Thị B thực hiện việc mua bán dâm tại nhà nghỉ Hoàng An thuộc thôn Đồng Nhân, xã Hải Bối, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội với giá 800.000 đồng. A được hưởng lợi 400.000 đồng.

Lần thứ hai: Ngày 07/6/2022 tại quán cà phê Ngói thuộc địa phận thôn Phúc Lộc, xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội, bị cáo Nguyễn Thị A đã có hành vi môi giới mại dâm cho Trần Văn Lâm và Nguyễn Thị B, Nguyễn Quang Dũng và Ngô Thị C thực hiện việc mua bán dâm tại nhà nghỉ Phố Vắng thuộc Tổ 36, Thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội với giá 1.500.000 đồng. A được hưởng lợi 500.000 đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm không chỉ xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, mà còn xâm phạm đến đạo đức truyền thống, nếp sống văn minh và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ngoài ra còn là nguyên nhân, môi trường lây lan căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và các căn bệnh xã hội khác. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mình gây ra và hậu quả, thậm chí đã từng bị xét xử về tội danh này song do thiếu tu dưỡng, ý thức coi thường pháp luật và một phần ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Thị A phạm tội: Môi giới mại dâm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm d, đ Khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự. Nội dung Điều luật như sau:

“1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

...

d) Phạm tội từ 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;” Vì vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử và có mức hình phạt thỏa đáng, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trước mọi hành vi phạm tội là cần thiết.

[3] Về nhân thân và tiền án, tiền sự của bị cáo: Ngày 08/4/2014, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội: Môi giới mại dâm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2017 và đã nộp án phí. Như vậy án tích đã được xóa. Bị cáo được xác định chưa có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để từ đó có hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội. Đánh giá chung trong toàn diện vụ án cho thấy: Bị cáo phạm loại tội nghiêm trọng do lỗi cố ý với 02 tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người. Như đã biết, mại dâm đang là một vấn nạn mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức lên án, ra sức kiềm chế, ngăn chặn do liên quan đến vấn đề sức khỏe, nhân phẩm, tổn tB tinh thần của người phụ nữ, trực tiếp liên quan đến các vấn đề xã hội, nạn buôn người, ma túy, ảnh hưởng thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bị cáo đã từng bị xét xử cùng về tội danh này mà không lấy dó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian hợp lý mới có tác dụng tiếp tục răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời đấu tranh, tuyên truyền, phòng chống tội phạm và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như đã phân tích ở trên, phạm tội xuất phát từ đặc điểm hoàn cảnh gia đình, kinh tế, mối quan hệ hôn nhân không bền vững, hạnh phúc nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo đều là lao động tự do, có thu nhập không ổn định nên không có khả năng thi hành án. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để:

Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước: Tổng số tiền 1.900.000 đồng; 01 Chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 30Z7 – 5705 và đăng ký xe; 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo 1906 màu tím, bên trong lắp sim thuê bao số 0966325374; 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, bên trong lắp sim thuê bao số 0349958911; 01 điện thoại Nokia 105 vỏ màu đen, bên trong lắp sim thuê bao số 0988623130 do là tiền các đối tượng thu lời bất chính và công cụ, pB tiện liên quan đến hành vi phạm tội.

[7] Đối với các hành vi mua bán dâm của các đối tượng Nguyễn Quang Dũng, Trần Văn Lâm, Đào Duy D, Nguyễn Thị B, Ngô Thị C, Công an huyện Đông Anh Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên bằng hình thức Phạt tiền là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cần kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Đông Anh trong công tác điều tra cần rút kinh nghiệm, làm rõ lai lịch các đối tượng mua dâm để có cơ sở cho việc xử lý, báo gọi, triệu tập và tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án.

Đối với nhà nghỉ Hoàng An và Nhà nghỉ Phố Vắng đều có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, vào sổ lưu trú khách đến thuê phòng theo quy định, không biết các đối tượng thực hiện hành vi mua bán dâm nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng quy định pháp luật.

Đối với các tài sản, đồ vật, tài liệu liên quan khác bị thu giữ, không liên quan đến vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản bị thu giữ cho các chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu là có căn cứ.

[8] Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng và các vấn đề liên quan đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị A phạm tội: Môi giới mại dâm.

2. Về hình phạt chính:

- Căn cứ Điểm d, đ Khoản 2 Điều 328; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Thị A 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/6/2022.

3. Về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo:

- Căn cứ Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 1.900.000 đồng; 01 Chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 30Z7 – 5705 và đăng ký xe; 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo 1906, bên trong lắp sim thuê bao số 0966325374; 01 điện thoại Iphone 5, bên trong lắp sim thuê bao số 0349958911; 01 điện thoại Nokia 105, bên trong lắp sim thuê bao số 0988623130.

(Chi tiết, tình trạng, đặc điểm theo Biên bản giao, nhận vật chứng và Giấy nộp tiền vào tài khoản cùng ngày 13/9/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Đông Anh với Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với phần Bản án hoặc quyết định có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 172/2022/HS-ST

Số hiệu:172/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về