Bản án về tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 52/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 52/2023/HS-ST NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO, LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2022/HSST ngày 13 tháng 2 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2023/QĐXXST-HS ngày 08/5/2023; đối với bị cáo:

Huỳnh A P, sinh năm 1995 tại T; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Phước Bình 1, xã Suối Đá, huyện D, tỉnh T; Nơi cư trú: Sóc Lộc Khê, xã Minh Đức, huyện H, tỉnh B; Nghề nghiệpTài xế; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Cao Đài; Quốc tịch: Việt Nam; C ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1972; Bị có vợ tên Thị T, sinh năm 1992; C Huỳnh Thị Trâm A, sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không;Bị cáo bị tạm giam trong vụ án khác, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Về nhân thân: Ngày 27/10/2022 bị cáo Huỳnh A P bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh A xử phạt 07 năm tù về tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 92/2022/HSST.

- Người bị hại:

A Nguyễn Huy Đ, sinh năm 1983, Vắng mặt không có lý do.

Địa chỉ: ấp 1B, xã Minh Đức, huyện H, tỉnh B.

-Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

A Hồ Minh D, sinh năm 1978, Có mặt.

Địa chỉ: Số 166, đường Gót Tràng, xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có quen biết từ trước, sáng ngày 29/05/2022, Huỳnh A P gọi điện cho A Nguyễn Huy Đ (kinh doA dịch vụ cho thuê xe ô tô) hỏi thuê xe ô tô 02 ngày thì A Đ đồng ý. Khoảng 14 giờ ngày 29/05/2022, P đến nhà A Đ để lấy xe, thì A Đ thỏa thuận với P giá thuê xe ô tô là 800.000 đồng/01 ngày và giao xe cùng giấy tờ liên quan cho P. Đến chiều ngày 30/05/2022 P vẫn chưa trả xe nên A Đ gọi điện thì P xin thuê thêm 05 ngày với giá cũ thì A Đ đồng ý. Đến ngày 02/6/2022, P đi về khu vực xã Minh Long, huyện Chơn Thành, tỉnh B để chơi, do cần tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên P nảy sinh ý định bán xe ô tô của A Đ để trả nợ và lấy tiền tiêu xài.

P liên hệ với 01 người phụ nữ tên Nhung (chưa xác định nhân thân lai lịch) tại quán cà phê “Mỹ Nhung” thuộc phường Minh Long, thị xã Chơn Thành để nhờ bán xe. Đ nói với Nhung là xe ô tô của đứa em nhờ bán giùm và thỏa thuận sẽ chia hoa hồng 10.000.000 đồng thì Nhung đồng ý. Đến khoảng 09 giờ 00 ngày 02/6/2022, Đ đến quán cà phê gặp Nhung thì Nhung giới thiệu người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) đi cùng P xuống khu vực phường Thuận Giao, Tp. Thuận An, tỉnh Bình D để bán xe ô tô. Khoảng 11 giờ cùng ngày P và người đàn ông trên đến địa điểm đã hẹn trước tại Bình D thì gặp A Hồ Minh D. P thỏa thuận bán xe ô tô cho D với giá 220.000.000 đồng, P nói: “Xe do em của P đứng tên, khi sang tên thì em sẽ ra công chứng”, P nhận cọc số tiền 170.000.000 đồng, giao giấy tờ xe cùng xe ô tô, biển kiểm soát: 51K – 016.71 cho D và thỏa thuận số tiền 50.000.000 đồng còn lại, khi nào sang tên xe ô tô sẽ nhận đủ tiền (bút lục 32, 34, 54A, 54E).

Sau khi bán được xe ô tô, P quay trở lại quán Cafe Mỹ Nhung cho bà Nhung số tiền 12.000.000 đồng tiền môi giới bán xe. Số tiền 158.000.000 đồng còn lại thì P mua cho người yêu là Lê Thị Ngọc Thảo số vàng khoảng 30.000.000 đồng, số tiền còn lại P và Thảo cùng tiêu xài hết (bút lục 29, 32, 60, 61).

Làm việc với Cơ quan điều tra, Huỳnh A P đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

Căn cứ Bản kết luận định giá số: 25/KL – HĐĐGTSTTTHS, ngày 13/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện H kết luận: Giá trị còn lại của 01 xe ô tô, nhãn hiệu Toyota, loại INOVA, biển kiểm soát: 51K – 016.71 tại thời điểm bị chiếm đoạt là 310.000.000 đồng (Ba trăm mười triệu đồng).

Tại bản cáo trạng 09/QĐ-VKS-HQ ngày 02 tháng 2 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh B truy tố bị cáo Huỳnh A P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Huỳnh A P phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh A P mức hình phạt 07 (Bảy) – 08 (Tám) năm tù.

Vật chứng vụ án:

-Đối với 01 xe ô tô, biển kiểm soát: 51K – 016.71, Số khung RL4XW42G9F9418657, số máy 1TR8809670. Qua điều tra xác định đây là tài sản của A Nguyễn Huy Đ. Ngày 04/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe ô tô trên cho A Đ là đúng quy định.

Về vấn đề dân sự:

Sau khi sự việc xảy ra A Nguyễn Huy Đ đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì khác nên không đề cập đến.

A Hồ Minh D yêu cầu Huỳnh A P bồi thường số tiền 170.000.000đ (Một trăm bảy mươi triệu đồng) tiền mua xe và 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng) tiền tân trang xe ô tô. Đề nghị Toà án buộc Huỳnh A P bồi thường cho A Hồ Minh D theo quy định pháp luật.

Bị cáo không trA luận, không kêu oan.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, trA luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Sáng ngày 29/05/2022, Huỳnh A P gọi điện cho A Nguyễn Huy Đ (Kinh doA dịch vụ cho thuê xe ô tô) hỏi thuê xe ô tô 02 ngày thì A Đ đồng ý. Khoảng 14 giờ ngày 29/05/2022, P đến nhà A Đ để lấy xe, thì A Đ thỏa thuận với P giá thuê xe ô tô là 800.000 đồng/01 ngày và giao xe cùng giấy tờ liên quan cho P. Đến chiều ngày 30/05/2022 P vẫn chưa trả xe nên A Đ gọi điện thì P xin thuê thêm 05 ngày với giá cũ thì A Đ đồng ý. Đến ngày 02/6/2022, P đi về khu vực phường Minh Long, thị xã Chơn Thành, tỉnh B để chơi, do cần tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên P nảy sinh ý định bán xe ô tô của A Đ để trả nợ và lấy tiền tiêu xài.

P liên hệ với 01 người phụ nữ tên Nhung để nhờ bán xe. Đ nói với Nhung là xe ô tô của đứa em nhờ bán giùm và thỏa thuận sẽ chia hoa hồng 10.000.000 đồng thì Nhung đồng ý. Đến khoảng 09 giờ 00 ngày 02/6/2022, Đ đến quán cà phê gặp Nhung thì Nhung giới thiệu người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) đi cùng P xuống khu vực phường Thuận Giao, Tp. Thuận An, tỉnh Bình D để bán xe ô tô. Khoảng 11 giờ cùng ngày P và người đàn ông trên đến địa điểm đã hẹn trước tại Bình D thì gặp A Hồ Minh D. P thỏa thuận bán xe ô tô cho D với giá 220.000.000 đồng, P nói: “Xe do em của P đứng tên, khi sang tên thì em sẽ ra công chứng”, P nhận cọc số tiền 170.000.000 đồng, giao giấy tờ xe cùng xe ô tô, biển kiểm soát: 51K – 016.71 cho D và thỏa thuận số tiền 50.000.000 đồng còn lại, khi nào sang tên xe ô tô sẽ nhận đủ tiền.

[3] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng của vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hành vi của bị cáo Huỳnh A P sau khi thuê được xe ô tô rồi nảy sinh ý định bán lấy tiền tiêu xài với số tiền đã nhận là 170.000.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định khoản 3 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó, Quyết định truy tố theo cáo trạng số 09/QĐ-VKS ngày 02 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Huỳnh A P về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, bị cáo là người có nhân thân xấu bị tòa án nhân dân huyện bến Lức, tỉnh A xử phạt 07 năm tù cũng về tội “Lừa đảo chiế đoạt tài sản” thể hiện tính xem thường pháp luật của bị cáo nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện và phòng ngừa chung.

[5] Về tính tiết tăng năng trách nhiệm Hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

-Đối với người bị hại A Nguyễn Huy Đ đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

-Đối với A Hồ Minh D yêu cầu Huỳnh A P bồi thường số tiền 170.000.000đ (Một trăm bảy mươi triệu đồng) tiền mua xe và 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng) tiền tân trang xe ô tô. Tại phiên tòa bị cáo P đồng ý bối thường cho A Đ số tiền nêu trên.

Xét thấy đây là sự thỏa thuận tự nguyện, phù hợp quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

-Đối với 01 xe ô tô, biển kiểm soát: 51K – 016.71, Số khung RL4XW42G9F9418657, số máy 1TR8809670. Qua điều Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe ô tô trên cho A Đ nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự và 4.575.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

[9] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh A P phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng khoản 3 Điều 173; điểm skhoản 1Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Huỳnh A P 08 (Tám) năm tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 tổng hợp hình phạt 07 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 92/2022/HSST ngày 27/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh A thành hình phạt chung là 15 (Mươi lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/7/2022.

3. Về vật chứng vụ án: Không xem xét.

4.Về trách nhiệm Dân sự: Không xem xét.

Ghi nhận sự thỏa thuận tự nguyện giữa bị cáo Huỳnh A P và A Hồ Minh D. Buộc bị cáo Huỳnh A P phải trả cho A Hồ Minh D số tiền là 183.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền) nếu bên phải thi hành chậm thi hành thì hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Huỳnh A P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 4.575.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống Đ hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 52/2023/HS-ST

Số hiệu:52/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về