Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 277/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 277/2020/HS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 28 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 303/2020/HSST ngày 02/6/2020 Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3489/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lê Thị Kim A, sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Số 75/6 Khu phố 7, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: Phật giáo; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Phước D và bà Lê Thị Kim E; chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giam ngày 06/3/2020 (có mặt).

2. Nguyễn Thị Kim G, sinh năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: xã H, huyện K, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế L và bà Phùng Sam M; chưa có chồng, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự:

không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Bị hại: Ông Bùi Thanh O, sinh năm: 1967; (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị Kim A là chủ sở hữu xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G - 130.38, do Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ Công an thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe số 330656 ngày 29/12/2017. Ngày 11/01/2018, A thế chấp xe cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Kiên Long, Chi nhánh Sài Gòn, Phòng giao dịch Tân Bình vay 710 triệu đồng.

Đến ngày 23/4/2018, A gặp Trần Đức P (người quen của A) tại khu vực siêu thị Aeon quận Tân Phú để bàn bàn bạc thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn sử dụng Giấy chứng minh nhân dân giả và Giấy đăng ký xe giả mang tên A, tìm người đóng giả chủ xe là A, mang xe đi cầm lấy tiền, sau đó A sẽ đến Công an trình báo bị lừa đảo chiếm đoạt xe để Công an thu hồi xe trả lại cho A, P đồng ý. A cung cấp bản photocopy Chứng minh nhân dân số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/7/2012 và bản photocopy Giấy chứng nhận đăng ký xe số 330656 do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/12/2017 của xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38 mang tên Lê Thị Kim A và đưa cho P 1,5 triệu đồng để P làm giấy tờ giả.

Thông qua người phụ nữ tên Út (không rõ lai lịch, là người quen của P) giới thiệu, Nguyễn Thị Kim G đồng ý đóng giả chủ xe là A. G đưa ảnh chân dung 3 x 4cm của G cho P. P thuê đối tượng không rõ lai lịch làm giả Chứng minh nhân dân số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/7/2012, dán ảnh của G và làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe số 330656 do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/12/2017 của xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38 mang tên Lê Thị Kim A.

Sau khi có các giấy tờ giả, ngày 24/4/2018, A điều khiển xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38 đến quán cà phê tại khu vực siêu thị Aeon quận Tân Phú gặp P và G. P giới thiệu cho A biết G sẽ là người đóng giả A khi cầm xe. A gọi điện thoại cho người đàn ông tên Tuấn Anh (không rõ lai lịch) đến, giới thiệu cho P và G biết Tuấn Anh là người tìm chỗ cầm xe. Tối cùng ngày, P, G, Tuấn Anh đi bằng xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38 của A (riêng A đi bằng máy bay vào sáng ngày 25/4/2018) lên thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Trưa ngày 25/4/2018, tất cả gặp nhau ở quán cà phê tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, A ở lại quán cà phê chờ, còn P và G đi cùng với Tuấn Anh bằng xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G- 130.38, mang theo Chứng minh nhân dân giả, Đăng ký xe ô tô giả và Giấy đăng kiểm, Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc đến gặp ông Bùi Thanh O (chủ tiệm cầm đồ Thanh Long, số 250 đường Lê Duẩn, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) để cầm xe. Trên đường đi P chỉ cho G nhớ các thông tin về chủ xe, đặc điểm của xe và cách thức trình bày lý do cầm xe với chủ tiệm cầm đồ. Khi gặp ông O, Tuấn Anh giới thiệu G với ông O rồi đi về quán cà phê chờ. G giới thiệu với ông O, G là chủ xe, do đánh bài thua nên muốn cầm xe lấy 500 triệu đồng để đánh bài tiếp. Ông O yêu cầu cung cấp giấy tờ xe thì P đưa Chứng minh nhân dân giả, Giấy đăng ký xe giả cùng Sổ đăng kiểm, Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc cho ông O xem. Thấy xe có giấy tờ đầy đủ, đúng chủ sở hữu đi cầm xe nên ông O đồng ý cầm xe với số tiền 500 triệu đồng nhưng chỉ đưa trước 150 triệu đồng, số tiền 350 triệu đồng còn lại sẽ đưa cho G sau khi ông O có kết quả kiểm tra tình trạng pháp lý của xe. P và G đồng ý, ông O ký Hợp đồng cầm đồ với G (ký tên là Lê Thị Kim A) với nội dung ông O nhận cầm xe với số tiền 150.000.000 đồng, thời hạn từ ngày 25/4/2018 đến ngày 25/5/2018 và đưa cho G 150 triệu đồng, ông O giữ lại xe cùng toàn bộ giấy tờ. G bỏ tiền vào túi màu đen đi cùng với P quay lại quán cà phê gặp A và Tuấn Anh. G đưa túi màu đen đựng 150 triệu đồng cho P, P đưa lại cho A. A chia cho Tuấn Anh 20 triệu đồng, A lấy 50 triệu đồng, số còn lại A đưa cho P. P chia cho G 03 triệu đồng, rồi tất cả quay về Thành phố Hồ Chí Minh (không đi cùng nhau).

Đến ngày 27/4/2018, tại quán cà phê trên địa bàn quận Tân Phú, Trần Đức P đưa cho Lê Thị Kim A giấy 01 Chứng minh nhân dân giả số 023006585 mang tên Nguyễn Thị R do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/7/2012, dán ảnh Nguyễn Thị Kim G và Hợp đồng thuê xe giữa A với người tên Nguyễn Thị R đề ngày 21/4/2018. Cùng ngày, A đến Công an Phường 11, quận Gò Vấp trình báo với nội dung: Ngày 21/4/2018, A ký hợp đồng cho người phụ nữ tên Nguyễn Thị R thuê xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38, giá 1,2 triệu đồng ngày, thời hạn 04 ngày, giao xe và giấy tờ tại phường 11, Quận Gò Vấp. Đến hạn R không trả lại xe, qua định vị phát hiện xe đang ở thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc, đồng thời A giao nộp Chứng minh nhân dân giả số 023006585 mang tên Nguyễn Thị R do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/7/2012 và Hợp đồng thuê xe để chứng minh nội dung tố cáo. Vì vậy, quá trình giải quyết tố giác về tội phạm của Lê Thị Kim A, ngày 15/8/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đã thu hồi xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G - 130.38 và lập biên bản trả lại xe trả lại cho A vào ngày 04/3/2019.

Sau khi phát hiện bị lừa đảo chiếm đoạt 150 triệu đồng, cũng trong khoảng thời gian A có đơn tố cáo tại Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh thì ngày 09/5/2018, ông Bùi Thanh O đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trình báo. Ngày 18/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk chuyển tố giác về tội phạm của ông O đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết chung với tố giác về tội phạm của Lê Thị Kim A. Sau đó, vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, ông Bùi Thanh O giao nộp 01 Hợp đồng cầm đồ đề ngày 25/4/2018, 01 Chứng minh nhân dân số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 330656 của xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38 mang tên Lê Thị Kim A, 01 USB ghi nhận hình ảnh của Trần Đức P và Nguyễn Thị Kim G tại tiệm cầm đồ của ông O khi thực hiện hành vi phạm tội.

Tại Bản Kết luận giám định số 623/KLGĐ-TT ngày 09/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ chí Minh kết luận: “Giấy chứng minh mang tên Nguyễn Thị R là giả”. Bản Kết luận giám định số 1537/KLGĐ-TT ngày 28/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ chí Minh kết luận: “Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 330656, hiệu Honda Civic biển số 51G-130.38 và Chứng minh nhân dân số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/7/2012 là giả”.

Tại Bản Kết luận giám định số 1260/KLGĐ-TT ngày 30/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ chí Minh xác định: “Chữ viết họ và tên Lê Thị Kim A trên tài liệu cần giám định là 01 Hợp đồng cầm đồ không đề số, đề dịch vụ cầm đồ Thành Long, ngày 25/4/2018 so với chữ viết Nguyễn Thị Kim G làm mẫu so sánh do cùng một người viết ra”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Thị Kim A, Nguyễn Thị Kim G và đối tượng Trần Đức P đã khai nhận hành vi như đã trên.

Ngày 04/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định khởi tố bị can đối với: Lê Thị Kim A, Trần Đức P và Nguyễn Thị Kim G, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Trong quá trình điều tra, P bỏ trốn nên ngày 10/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định truy nã.

Vật chứng thu giữ lưu theo hồ sơ vụ án gồm: 01 Hợp đồng cầm đồ đề ngày 25/4/2018, 01 Chứng minh nhân dân số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 330656 của xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38; 01 USB do ông Bùi Thanh O giao nộp; 01 Chứng minh nhân dân số 023006585 mang tên Nguyễn Thị R, Hợp đồng thuê xe đề ngày 21/4/2018 thu giữ của Lê Thị Kim A; 02 đĩa CD ghi âm, ghi hình.

Về trách nhiệm dân sự: bị cáo Lê Thị Kim A đã bồi thường cho ông Bùi Thanh O số tiền 200.000.000 đồng và được ông O viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại Bản Cáo trạng số 225/CT-VKS-P2 ngày 28/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

- Bị cáo Lê Thị Kim A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo điểm a, c khoản 2 Điều 174 và tội "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b, d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Bị cáo Nguyễn Thị Kim G về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo điểm a, c khoản 2 Điều 174 và tội "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thị Kim A, Nguyễn Thị Kim G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Các bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng, không oan sai.

Vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong giai đoạn điều tra, người bị hại Bùi Thanh O đã khai nhận: do tin tưởng người cầm xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G - 130.38 có giấy tờ đầy đủ, đúng chủ sở hữu đi cầm xe nên ông đã đồng ý nhận cầm xe với số tiền 500 triệu đồng nhưng chỉ đưa trước 150 triệu đồng, số tiền 350 triệu đồng còn lại sẽ đưa sau khi có kết quả kiểm tra tình trạng pháp lý của xe. Sau khi bị thu hồi xe ông mới biết mình bị lừa đảo và các giấy tờ xe là giả nên ông đã tố cáo. Sau khi vụ án bị phát giác, bị cáo Lê Thị Kim A đã trả cho ông đầy đủ các khoản tiền nhận cầm xe và tiền lãi phát sinh nên ông có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo trong vụ án, không yêu cầu phải bồi thường thêm khoản nào khác.

Sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, đối chiếu với toàn bộ lời khai của bị cáo, cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lê Thị Kim A, Nguyễn Thị Kim G về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm b, d khoản 2 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Thị Kim A từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội từ 07 năm đến 08 năm tù.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Thị Kim G từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội từ 05 năm đến 06 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận các bị cáo không phải bồi thường khoản nào khác cho bị hại. Về vật chứng gồm các giấy tờ, hợp đồng giả là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo nên đề nghị tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

Các bị cáo Lê Thị Kim A, Nguyễn Thị Kim G không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng mong muốn được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thị Kim A, Nguyễn Thị Kim G không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, các bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Lê Thị Kim A, Nguyễn Thị Kim G đã khai nhận toàn bộ những hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ căn cứ xác định: Mặc dù ngày 11/01/2018, Lê Thị Kim A đã thế chấp xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G - 130.38 cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Kiên Long, Chi nhánh Sài Gòn, phòng giao dịch Tân Bình vay 710 triệu đồng. Nhưng với mục đích chiếm đoạt tiền của người khác, A cùng với Nguyễn Thị Kim G và đối tượng Trần Đức P đã bàn bạc, thống nhất dùng thủ đoạn gian dối bằng cách sử dụng giấy Chứng minh nhân dân giả số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28/7/2012, dán ảnh Nguyễn Thị Kim G và Giấy chứng nhận đăng ký giả số 330656 do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/12/2017 của xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38 mang tên Lê Thị Kim A. Sau đó, A phân công người đàn ông tên Tuấn Anh (chưa rõ lai lịch), thông qua Hòa thuê G đóng giả chủ xe là A sử dụng giấy tờ giả ký Hợp đồng cầm xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38 cho ông Bùi Thanh O (chủ tiệm cầm đồ Thanh Long, số 250 đường Lê Duẩn, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) để chiếm đoạt 150.000.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được tiền của ông O, A chia cho Tuấn Anh 20.000.000 đồng, A lấy 50.000.000 đồng và đưa số tiền còn lại cho P; G khai được P chia 3.000.000 đồng. Đến ngày 27/4/2018, Lê Thị Kim A tiếp tục sử dụng giấy Chứng minh nhân dân giả số 023006585 mang tên Nguyễn Thị R do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/7/2012, dán ảnh Nguyễn Thị Kim G và Hợp đồng thuê xe giữa A với người tên Nguyễn Thị R đề ngày 21/4/2018 đến Công an Phường 11, quận Gò Vấp trình báo đã bị lừa đảo chiếm đoạt xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38, nhằm mục đích để Cơ quan Cảnh sát điều tra thu hồi xe ô tô đã cầm cho ông O, trả lại cho A. Ngày 15/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đã thu hồi xe ô tô trên và lập biên bản trả lại xe trả lại cho A vào ngày 04/3/2019.

Các bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của ông Bùi Thanh O, phạm tội có tổ chức, phân công vai trò, nhiệm cụ của từng người và hành vi nhờ người khác làm giả Giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Kim A, Giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Thị Ánh và Hợp đồng thuê xe giả giữa A với người tên Nguyễn Thị R sau đó sử dụng các giấy tờ giả này thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng và các hành vi trái pháp luật.

Do đó, đã có đủ cơ sở để tuyên bố bị cáo Lê Thị Kim A phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng theo điểm a, c khoản 2 Điều 174 và "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên, sử dụng tài liệu thực hiện tội phạm nghiêm trọng theo điểm b, d khoản 2 Điều 341; bị cáo Nguyễn Thị Kim G phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng theo điểm a, c khoản 2 Điều 174 và "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” thuộc trường hợp sử dụng tài liệu thực hiện tội phạm nghiêm trọng theo điểm d khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác; xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý hành chính nhà nước, sự hoạt động bình thường và uy tín của các cơ quan, tổ chức, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.

Các bị cáo phạm nhiều tội với tính chất táo bạo, liều lĩnh, có sự câu kết, bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng người, phạm tội có tổ chức. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra về từng tội danh mà bị cáo phạm phải và buộc các bị cáo phải chịu hình phạt tổng hợp chung của nhiều tội theo Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì mới có tác dụng giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét các bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; không có tiền án, tiền sự; đã được người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Lê Thị Kim A đã bồi thường thiệt hại cho bị hại; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, cha mẹ đã già yếu, thường xuyên đau bệnh; bị cáo G đang nuôi 03 con nhỏ, thời điểm phạm tội con nhỏ nhất của bị cáo mới được hơn 02 tháng.

Do đó, cần áp dụng các quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Thị Kim A và áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu G để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

Khi tham gia thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có vai trò, vị trí và mức độ hành vi phạm tội là khác nhau nên mức hình phạt khi lượng hình cũng khác nhau. Bị cáo Lê Thị Kim A là người cầm đầu, chỉ huy bị cáo Nguyễn Thị Thu G và các đối tượng khác thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo G là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội theo kế hoạch phân công của bị cáo A. Mặc khác, đối với hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức bị cáo A phạm tội với hai tình tiết định khung hình phạt phạm tội 02 lần trở lên, sử dụng tài liệu thực hiện tội phạm nghiêm trọng, trong khi bị cáo G chỉ phạm tội với một tình tiết định khung. Do đó, hình phạt với bị cáo A phải cao hơn so với bị cáo G.

Đối với Trần Đức P: quá trình điều tra, P đã bỏ trốn, ngày 10/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định truy nã; ngày 12/3/2020 đã ra Quyết định tách vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, Quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với P, chờ bắt được xử lý sau là đúng quy định.

Đối với người đàn ông tên Tuấn Anh và người phụ nữ tên Út, chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục truy tìm, điều tra làm rõ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với chị Nguyễn Thị R, kết quả điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên không xem xét xử lý là có căn cứ.

Đối với giao dịch thế chấp xe giữa Lê Thị Kim A với Ngân hàng Thương mại cổ phần Kiên Long, Chi nhánh Sài Gòn, phòng giao dịch Tân Bình (số 603 đường Hoàng Văn Thụ, Phường 4, quận Tân Bình) vay 710 triệu đồng vào ngày 11/01/2018 là quan hệ dân sự. Ngày 26/02/2019, Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nên không xem xét xử lý trong vụ án này.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Bùi Thanh O đã được gia đình bị cáo Lê Thị Kim A bồi thường tổng số tiền 200.000.000 đồng và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thêm khoản nào khác nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 Hợp đồng cầm đồ đề ngày 25/4/2018, 01 Chứng minh nhân dân số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 330656 của xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G- 130.38; 01 USB do ông Bùi Thanh O giao nộp; 01 Chứng minh nhân dân số 023006585 mang tên Nguyễn Thị R, Hợp đồng thuê xe đề ngày 21/4/2018 thu giữ của Lê Thị Kim A; 02 đĩa CD ghi âm, ghi hình. Đây là các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo nên tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm b, d khoản 2 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Thị Kim A 04 (bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 03 (ba) năm tù về tội "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2020.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Thị Kim G 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 02 (hai) năm tù về tội "Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ghi nhận các bị cáo không phải bồi thường khoản nào khác cho bị hại Bùi Thanh O.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 Hợp đồng cầm đồ đề ngày 25/4/2018, 01 Chứng minh nhân dân số 023364531 mang tên Lê Thị Kim A, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 330656 của xe ô tô hiệu Honda Civic màu xanh, biển số 51G-130.38; 01 USB do ông Bùi Thanh O giao nộp; 01 Chứng minh nhân dân số 023006585 mang tên Nguyễn Thị R, Hợp đồng thuê xe đề ngày 21/4/2018 thu giữ của Lê Thị Kim A; 02 đĩa CD ghi âm, ghi hình.

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 277/2020/HS-ST

Số hiệu:277/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về