Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 240/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 240/2023/HS-ST NGÀY 17/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 17 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 244/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1721/2023/QĐXXST-HS ngày 19/4/2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Quang T; Sinh ngày 09 tháng 10 năm 1989 tại: Nghệ An; Nơi đăng ký thường trú: Xóm 6, xã A, huyện B, tỉnh Nghệ An; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Nguyễn Quang T1 và bà Nguyễn Thị B; Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1989; Con: có 02 con cùng sinh năm 2020, ngoài ra bị cáo còn có 02 con với vợ thứ 1 (đã ly hôn), lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2014;

Tiền án: Bản án số 128/2015/HSST ngày 21/5/2015, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 15/8/2015 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 21/5/2021 bị cáo nộp án phí;

Nhân thân: Bản án số 68/2021/HS-ST ngày 20/9/2021, Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng xử phạt mức án tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo kháng cáo; Bản án số 03/2022/HS-PT ngày 06/01/2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên xử giữ nguyên hình phạt tử hình tại bản án hình sự sơ thẩm số 68/2021/HS-ST ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bị bắt, tạm giam ngày: 09/11/2020 trong vụ án theo bản án số 68/2021/HS- ST ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng và theo bản án số 03/2022/HSPT ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng – bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Ngô Quốc T2, sinh năm 1977; Nơi cư trú: 217/14 Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1979; Nơi đăng ký thường trú: 239 đường số 5, phường E, Quận F Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 369 phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

2/ Lê Văn T3, sinh năm 1975; Nơi cư trú: D20A/28L ấp 4, xã G, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Tạ Thanh P - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư A, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ cho bà Nguyễn Thị Tuyết N. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền để tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Quang T và Phan Viết V (chưa rõ lai lịch) bàn bạc với nhau tìm người có xe ô tô để thuê, sau đó đem đi cầm lấy tiền chia nhau tiêu xài. Ngày 10/10/2020, thông qua một người bạn tên L (chưa rõ lai lịch) T biết anh Lê Văn T3 và chị Nguyễn Thị Tuyết N là chủ tiệm cầm đồ tại huyện I, tỉnh Long An có cầm xe ô tô biển số thành phố; đồng thời ngày 14/10/2020 qua tìm hiểu trên mạng internet, T biết anh Ngô Quốc T2, ngụ chung cư 312 Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh cho thuê xe ô tô tự lái, Thìn trao đổi qua điện thoại và được anh T2 đồng ý cho thuê 1 xe ô tô hiệu Fortuner 07 chỗ ngồi với giá 1.000.000 đồng/ngày và hẹn ngày 15/10/2020 đến nhận xe, về thủ tục để thuê xe ô tô phải có bản chính sổ hộ khẩu của người thuê xe nên T đã đưa thông tin cá nhân của T cho V làm giả sổ hộ khẩu bản chính mang tên T.

Khoảng 22 giờ ngày 15/10/2020, T sử dụng sổ hộ khẩu giả bản chính mang tên T do V đưa kèm bản photo giấy phép lái xe và chứng minh nhân dân đứng tên Nguyễn Quang T đến chung cư 312 Phường C, Quận D,, Thành phố Hồ Chí Minh gặp anh Ngô Quốc T2 thuê xe ô tô tự lái nhãn hiệu Fortuner, biển số 51F- 099.10. Qua thỏa thuận và kiểm tra các giấy tờ cá nhân do T đưa nêu trên, anh T2 đồng ý cho T thuê xe với giá 01 triệu đồng/ngày, thời hạn thuê từ 15/10/2020 đến 30/10/2020, thêm tiền thuê xe nửa ngày là 500.000 đồng, tiền đặt cọc thuê xe 15.000.000 đồng; tổng số tiền T đặt cọc và trả trước tiền thuê xe cho anh T2là 30.500.000 đồng, bằng cách chuyển tiền từ tài khoản của T vào tài khoản cá nhân của anh T2. T nhận xe từ anh T2 kèm các giấy tờ liên quan đến xe ô tô biển số 51F-099.10 gồm: bản chính giấy đăng kiểm xe; bản phô tô giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô tên Nguyễn Hồ Minh T và hợp đồng ủy quyền từ Nguyễn Hồ Minh T cho anh T2, 2 bên lập biên nhận tiền và xe ô tô trên (bút lục 191, 193, 194, 132, 133).

Ngay sau khi thuê được xe ô tô nhãn hiệu Fortuner biển số 51F- 099.10, T liền điều khiển xe ô tô đến tiệm cầm đồ của anh T3, chị N trên đường đi T gặp và lấy các giấy tờ xe ô tô do anh T2 đưa cho V để V dùng điện thoại di động chụp lại bản phô tô giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô và hợp đồng ủy quyền từ anh T cho anh T2 để V làm giả bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Nguyễn Hồ Minh T và bản chính hợp đồng ủy quyền giả từ chủ xe là anh Nguyễn Hồ Minh T sang cho T, đồng thời điện thoại hẹn chị N khuya ngày 15/10/2020 sẽ đem xe ô tô đến cầm. Khoảng 23 giờ ngày 15/10/2020, T điều khiển xe ô tô biển số 51F-099.10 đến tiệm cầm đồ V gặp vợ chồng anh T3 và chị N để cầm xe, T nói xe ô tô hiệu Fortuner, biển số 51F-099.10 là của T nhưng do T không mang theo giấy đăng ký xe ô tô bản chính nên T hẹn ngày 16/10/2020 sẽ bổ sung, chỉ đưa trước bản chính chứng minh nhân dân mang tên T. Qua thỏa thuận, anh T3, chị N đồng ý cầm của T 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Fortuner, biển số 51F-099.10 với số tiền 400.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, thời hạn cầm từ 15/10/2020 đến 30/10/2020, nhưng do T chưa đưa giấy đăng ký xe ô tô biển số 51F-099.10 bản chính để chứng minh T là chủ xe nên chị Nhung chỉ đưa trước cho T 150.000.000 đồng, và hẹn hôm sau khi T đưa giấy đăng ký xe ô tô bản chính thì chị N sẽ đưa số tiền còn lại. Đến 00 giờ ngày 16/10/2020, Chị N và T cùng lập hợp đồng cầm xe ô tô nhãn hiệu Fortuner 07 chỗ, biển số 51F- 099.10; đồng thời T viết giấy tay bán xe ô tô này cho chị N để chị Nhung an tâm trong trường hợp T không chuộc lại xe ô tô.

Ngày 16/10/2020, khi V đưa T giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 51F-099.10 bản chính giả mang tên Nguyễn Hồ Minh T và hợp đồng ủy quyền bản chính giả từ Nguyễn Hồ Minh T sang tên T. Đến 17 giờ cùng ngày, T đến và đưa cho chị N, tin các giấy tờ trên là thật nên chị N đưa cho T số tiền 250.000.000 đồng còn lại như thỏa thuận trước đó. Khi nhận đủ tiền T hẹn V tại đường đường X, huyện Y và đưa cho V 320.000.000 đồng, số tiền còn lại 80.000.000 đồng T cất giữ tiêu xài cá nhân (bút lục 205, 213, 123, 124, 126, 127).

Đến ngày 30/10/2020 hết hạn hợp đồng thuê xe ô tô hiệu Fortuner 07 chỗ, biển số 51F- 099.10 của anh T2 và cũng là ngày hết hạn việc cầm xe ô tô trên đối với anh T3, chị N nên T điện thoại cho anh T2 xin gia hạn thuê xe ô tô thêm 15 ngày thì được anh T2 đồng ý. Ngày 31/10/2020, T trả 15.000.000 đồng tiền thuê xe cho anh T2 bằng cách chuyển tiền từ tài khoản của T vào tài khoản cá nhân của anh T2; điện thoại cho anh T3, chị N xin tiếp tục cầm xe ô tô thêm 15 ngày thì được anh T3, chị N đồng ý, T chuyển 10.000.000 đồng tiền lãi suất cầm xe ô tô từ tài khoản của T vào tài khoản của chị N (bút lục 124, 125, 126, 206, 212, 213).

Ngày 09/11/2020, Nguyễn Quang T bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Đà Nẵng bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 20/9/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tuyên phạt T mức án tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện bị can T đang bị tạm giam để thi hành án tại Trại tạm giam Công an Thành phố Đà Nẵng (bút lục từ 248 đến 255, từ 222 đến 254).

Do hết thời hạn thuê xe ô tô biển số 51F-099.10 nhưng T không trả xe, anh Ngô Quốc T2 không liên lạc được, nên ngày 18/11/2020 anh T2 làm đơn tố cáo T tại Công an Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục 157).

Quá trình điều tra Nguyễn Quang T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 111/KL-HĐĐGTS ngày 18/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 11 kết luận: “01 xe ô tô hiệu Toyota Fortuner, biển số: 51F-099.10 có trị giá là 435.000.000 đồng tại thời điểm 15/10/2020” (bút lục 180).

Bản kết luận giám định số 336/KLGĐ ngày 18/1/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Chữ ký, chữ viết họ tên “Nguyễn Quang T” dưới mục “Khách hàng” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Quang T trên tài liệu dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M do cùng một người ký và viết ra” (bút lục 187).

Tại kết luận giám định số 869/KLGĐ ngày 06/2/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

“1. Bản in phôi “Sổ hộ khẩu” cần giám định được làm giả bằng phương pháp in phun màu.

2. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký “Thiếu tá Trần Văn Hoàng” trên tài liệu cần giám định là thật hay giả do không có mẫu so sánh tương ứng.

3. Hình dấu tròn có nội dung “CÔNG AN HUYỆN L T.NGHỆ AN*CÔNG AN XA THAI SƠN” cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung làm mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra (bút lục 183).

Tại kết luận giám định số 1231/KL-KTHS ngày 04/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

“Tài liệu cần giám định 01 chứng nhận đăng ký xe ô tô số 044348, biển số đăng ký 51F-099.10, tên chủ xe Nguyễn Hồ Minh T, đề ngày cấp 28/01/2015, là giả (bản in phôi giấy và hình dấu được làm giả bằng phương pháp in phun màu; chữ ký được ký giả trực tiếp) ”.

Hình dấu tròn có nội dung “SỞ TƯ PHÁP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - PHÒNG CÔNG CHỨNG SỐ 5” trên tài liệu cần giám định 01 Hợp đồng ủy quyền đứng tên bên ủy quyền: Nguyễn Hồ Minh Tiến; bên được ủy quyền Nguyễn Quang T, đề số công chứng 20396 ngày 15/10/2021 tại Phòng Công chứng số 5 - Thành phố Hồ Chí Minh (ký hiệu A2) được in giả bằng phương pháp in phun màu.

Chữ ký tên “Công chứng viên Huỳnh Kim Đ” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A2 (đã nêu ở mục 11. 1) so với chữ ký của Công chứng viên Huỳnh Kim Đ trên tài liệu mẫu ký hiệu MI (đã nêu ở mục II. 1) không do cùng một người ký ra (bút lục 75).

Kết luận giám định số 2619/KL-KTHS ngày 12/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

“- Chữ ký dạng chữ viết “T” và chữ viết họ tên “NGUYỄN HỒ MINH T” trên tài liệu giám định ký hiệu A2 (đã nêu ở mục II. 1) so với chữ ký dạng chữ viết “T” và chữ viết họ tên “NGUYỄN HỒ MINH T” do Nguyễn Quang T viết trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu MI 1 (đã nêu ở mục II. 2) do cùng một người viết ra.

Chữ ký, chữ viết họ tên “Nguyễn Quang T” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A2 (đã nêu ở mục II. 1) so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Quang T trên 03 (ba) tài liệu so sánh ký hiệu từ MI đến M3 (đã nêu ở mục II. 2) do cùng một người ký và viết ra” (bút lục 77).

Về vật chứng vụ án:

- 01 sổ hộ khẩu (bản chính) giả, số: 420340998. Họ và tên chủ hộ: Nguyễn Quang T, nơi cư trú: Xóm 6, xã A, huyện B, tỉnh Nghệ An; ngày, tháng, năm sinh: 9/10/1989.

- 01 biên nhận số: 035 về khoản: Thuê xe tự lái 15 ngày Fortuner 51F- 099.10. Khách hàng: Nguyễn Quang T.

- 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang T (bản photo).

- 01 (một) hợp đồng cầm cố ghi ngày 16 tháng 10 năm 2020, mẫu của cửa hàng dịch vụ cầm đồ V phát hàng, nội dung Nguyễn Quang T cầm thế chấp cho cửa hàng dịch vụ cầm đồ V 01 xe ô tô với số tiền 400.000.000 đồng.

- 01 (một) giấy bán tặng cho xe ghi ngày 16/10/2020 với nội dung Nguyễn Quang T, sinh ngày 09/10/1989, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú Thôn 6, xã A, huyện B, tỉnh Nghệ An bán cho Nguyễn Thị Tuyết N 01 xe ô tô Fortuner biển số 51F-099.10 với giá 400.000.000 đồng.

- 01 (một) “Hợp đồng ủy quyền”, đứng tên Bên ủy quyền Nguyễn Hồ Minh T, bên được ủy quyền Nguyễn Quang T, đề số công chứng 20396 ngày 15/10/2022 tại Phòng Công chứng số 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 044348, biển số đăng ký 51F-099.10, tên chủ xe Nguyễn Hồ Minh T đề ngày 28/01/2015.

Số vật chứng trên kèm theo hồ sơ vụ án (bút lục từ 268 đến 274).

Ngày 05/01/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra công an Quận 11 đã trả cho Ngô Quốc T2, gồm: (Bút lục 174) - Xe ô tô nhãn hiệu Fortuner biển số 51F-099.10, qua xác minh được biết xe trên do anh Nguyễn Hồ Minh T đứng tên chủ sở hữu, năm 2015 anh T đã bán xe trên cho anh Ngô Quốc T2, ngày 13/02/2015 anh T lập hợp đồng ủy quyền có công chứng cho anh Tâm toàn quyền bán, tặng, cho… đối với xe trên.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 044348, biển số đăng ký 51F-099.10 do Thượng tá Trần Văn T ký, có hình dấu mộc tròn “C.H.X.H.C.N.VIỆT NAM *THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”.

- 01 hợp đồng ủy quyền công chứng số 00005224; Quyển số 02/TP/VPCC- SCC/HĐGĐ ngày 13/2/2015 do công chứng viên Nguyễn Thị H ký có hình dấu mộc tròn VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG S.

Về trách nhiệm dân sự:

Anh Ngô Quốc T2 đã nhận lại tài sản xe ô tô nhãn hiệu Fotuner biến số 51F - 099.10, không yêu cầu bồi thường thêm, nhưng yêu cầu xử lý hành vi lừa đảo của Thìn theo quy định của pháp luật (bút lục 215, 194).

Anh Lê Văn T3 yêu cầu Nguyễn Quang T bồi thường số tiền 400.000.000 đồng và lãi suất bị thiệt hại theo quy định pháp luật;

Tại bản Cáo trạng số 598/CT-VKS-P2 ngày 24/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 174 và điểm b, c khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, từ đó giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174 và điểm b, c khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T mức hình phạt từ 08 năm đến 09 năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và từ 03 năm đến 04 năm tù, về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp với hình phạt Tử hình theo bản án số 03/2022/HSPT ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng, mức hình phạt đề nghị là Tử hình.

Về trách nhiệm dân sự: trong quá trình điều tra, Ông Lê Văn T3 và bà Nguyễn Thị Tuyết N đã xác định bà N là người bỏ tiền ra và đưa số tiền tổng cộng 400.000.000 đồng cho bị cáo, và thống nhất bà N là người yêu cầu bị cáo bồi thường. Tại phiên tòa, bà N yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền gốc lẫn lãi tổng cộng 582.000.000 đồng và bị cáo đồng ý bồi thường, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện bồi thường trên của bị cáo.

Về xử lý vật chứng của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Thị Tuyết N có ý kiến: Yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền gốc 400.000.000 đồng, tiền lãi là 182.000.000 đồng, tổng cộng 582.000.000 đồng.

Luật sư bảo vệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: do Hợp đồng cầm cố là hợp đồng vay mượn có lãi suất, là hợp đồng hợp pháp, việc bị cáo làm giả các giấy tờ trên bà N không biết, nên chấp nhận cho bị cáo cầm xe, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N do tại phiên tòa bị cáo đã đồng ý bồi thường.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quang T không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Quang T tại phiên tòa cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:

Với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác đem cầm cố lấy tiền tiêu xài, vào ngày 15 và 16/10/2020, Nguyễn Quang T đã đưa thông tin cho Phan Viết V (chưa rõ lai lịch) làm giả sổ hộ khẩu bản chính đứng tên T; giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả bản chính đứng tên anh Hồ Minh T và hợp đồng ủy quyền giả bản chính từ anh T sang cho T đối với xe ô tô nhãn hiệu Fotuner biển số 51F-099.10. T đã dùng lời nói, thông tin không có thật và sử dụng các giấy tờ giả trên để thuê xe ô tô hiệu Fotuner biển số 51F- 099.10 của anh T2, trị giá 435.000.000 đồng rồi chiếm đoạt xe và đem xe ô tô này đi cầm cho cơ sở cầm đồ V, do bà Nguyễn Thị Tuyết N ký hợp đồng cầm và trực tiếp đưa cho bị cáo 2 lần với số tiền 400.000.000 đồng.

Như vậy, bị cáo Nguyễn Quang T có hành vi dùng lời nói, thông tin không có thật và sử dụng các giấy tờ giả để thuê rồi chiếm đoạt chiếc xe ô tô của anh Tâm trị giá 435.000.000 đồng, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tội danh và hình phạt quy định tại điểm b, c khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét thấy bị cáo phạm nhiều tội và hiện đang chấp hành hình phạt Tử hình của bản án số: 03/2022/HSPT ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do đó cần áp dụng Điều 55 và Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt của hai tội danh và nhiều bản án đối với bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Quang T là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt, nhưng đã bất chấp hậu quả; bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử, nên cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo đã bị xét xử bởi bản án số 128/2015/HSST ngày 21/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh, đến ngày 21/5/2021 bị cáo mới chấp hành xong bản án, do đó bị cáo chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này được xác định là “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bà N yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền gốc lẫn lãi tổng cộng 582.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo, nên buộc bị cáo phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Tuyết N số tiền 582.000.000 đồng, trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[5] Xử lý vật chứng: Các vật chứng đang lưu trong hồ sơ vụ án cần tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án bao gồm:

- 01 sổ hộ khẩu giả (bản chính) số: 420340998. Họ và tên chủ hộ: Nguyễn Quang T, nơi cư trú: Xóm 6, xã A, huyện B, tỉnh Nghệ An; ngày, tháng, năm sinh: 9/10/1989.

- 01 biên nhận số 035 về khoản: Thuê xe tự lái 15 ngày Fortuner 51F- 099.10. Khách hàng: Nguyễn Quang T.

- 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang T (bản photo); 01 (một) hợp đồng cầm cố ghi ngày 16 tháng 10 năm 2020, mẫu của cửa hàng dịch vụ cầm đồ V phát hành, nội dung Nguyễn Quang T cấm thế chấp cho cửa hàng dịch vụ cầm đồ V 01 xe ô tô với số tiền 400.000.000 đồng.

- 01 (một) giấy bán tặng cho xe ghi ngày 16/10/2020 với nội dung Nguyễn Quang T, sinh ngày 09/10/1989, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú Thôn 6, xã A, huyện B, tỉnh Nghệ An bán cho Nguyễn Thị Tuyết N 01 xe ô tô Fortuner biển số 51F-099.10 với giá 400.000.000 đồng.

- 01 (một) “Hợp đồng ủy quyền”, đứng tên Bên ủy quyền Nguyễn Hồ Minh T, bên được ủy quyền Nguyễn Quang T, đề số công chứng 20396 ngày 15/10/2022 tại Phòng Công chứng số 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 (Một) giấy chứng nhận đăng lý xe ô tô số 044348, biển số đăng ký 51F-099.10, tên chủ xe Nguyễn Hồ Minh T đề ngày 28/01/2015.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174 và điểm b, c khoản 3 Điều 341; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 và Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 08 (tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù.

Tổng hợp hình phạt trên với hình phạt Tử hình tại bản án số 03/2022/HSPT ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là Tử hình.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 Buộc bị cáo Nguyễn Quang T có trách nhiệm bồi thường số tiền 582.000.000 (Năm trăm tám mươi hai triệu) đồng cho bà Nguyễn Thị Tuyết N. Thi hành một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thanh toán đầy đủ các khoản tiền bồi thường về tài sản theo mức nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo quy định tại thời điểm thanh toán, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

- Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu lưu vào hồ sơ vụ án các vật chứng bao gồm:

+ 01 sổ hộ khẩu giả (bản chính) số: 420340998. Họ và tên chủ hộ: Nguyễn Quang T, nơi cư trú: Xóm 6, xã Thái Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; ngày, tháng, năm sinh: 9/10/1989.

+ 01 biên nhận số 035 về khoản: Thuê xe tự lái 15 ngày Fortuner 51F- 099.10. Khách hàng: Nguyễn Quang T; 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang T (bản photo).

+ 01 (một) hợp đồng cầm cố ghi ngày 16 tháng 10 năm 2020, mẫu của cửa hàng dịch vụ cầm đồ Vphát hành, nội dung Nguyễn Quang T cấm thế chấp cho cửa hàng dịch vụ cầm đồ V01 xe ô tô với số tiền 400.000.000 đồng.

+ 01 (một) giấy bán tặng cho xe ghi ngày 16/10/2020 với nội dung Nguyễn Quang T, sinh ngày 09/10/1989, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú Thôn 6, xã Á, huyện B, tỉnh Nghệ An bán cho Nguyễn Thị Tuyết N 01 xe ô tô Fortuner biển số 51F-099.10 với giá 400.000.000 đồng.

+ 01 (một) “Hợp đồng ủy quyền”, đứng tên Bên ủy quyền Nguyễn Hồ Minh T, bên được ủy quyền Nguyễn Quang T, đề số công chứng 20396 ngày 15/10/2022 tại Phòng Công chứng số 5, Thành phố Hồ Chí Minh; 01 (Một) giấy chứng nhận đăng lý xe ô tô số 044348, biển số đăng ký 51F-099.10, tên chủ xe Nguyễn Hồ Minh T đề ngày 28/01/2015; (Số vật chứng trên đã kèm theo hồ sơ vụ án).

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 29.100.000 (Hai mươi chín triệu một trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Quang T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Nguyễn Quang T có quyền nộp đơn gửi lên Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 240/2023/HS-ST

Số hiệu:240/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về