Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 305/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 305/2022/HS-PT NGÀY 12/05/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 123/2022/TLPT-HS, ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Lê Tấn C; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 13 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 258/2022/QĐPT-HS ngày 22 tháng 4 năm 2022.

- Bị cáo có kháng cáo: Lê Tấn C, sinh năm 1984 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: khu phố 2, phường TĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D và con bà Trần Thị U; có vợ (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: không, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 17 tháng 01 năm 2020 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Tấn C: Ông Đoàn Huy H là Luật sư của Văn phòng luật sư Trọng Anh, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Võ Văn S, sinh năm 1971; nơi cư trú: ấp 2A, xã HP, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

2. Ông Trịnh Huy Th, sinh năm 1984; nơi cư trú: số 211/7, đường LTT, phường KS, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh; có đơn xin vắng mặt.

3. Ông H Đình Tr, sinh năm 1990; nơi cư trú: số 15, đường BCT, xã ĐT, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; có đơn xin vắng mặt.

4. Ông Đậu Đức H1, sinh năm 1992; nơi cư trú: số 5B/2C, khu phố ĐA, phường BH, thành phố TA, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.

5. Bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1963; nơi cư trú: số 103/31, khu phố ĐT, phường LT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị Kim L1, sinh năm 1990; nơi cư trú: số 91B1, khu phố BP, phường BN, thành phố TA, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.

2. Ông Lê Khánh C1, sinh năm 1991; ấp 2, xã BL, thị xã LK, tỉnh Đồng Nai; có đơn xin vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Dương Thị A, sinh năm 1965; có đơn xin vắng mặt.

2. Bà Trần Thị Kim B, sinh năm 1976; có đơn xin vắng mặt.

3. Ông Võ Văn S1, sinh năm 1993; vắng mặt.

4. Bà Trần Thị Kh, sinh năm 1970; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Khánh C1 là em chồng của bà Nguyễn Thị Kim L1. Bà L1 là chủ sử dụng thửa đất số 1935, diện tích 238,5m2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS07251 ngày 17/01/2017 và nhờ Lê Khánh C1 đứng tên. Sau đó, bà L1 xây dựng tám căn nhà diện tích mỗi căn là 3,7m x 7,5m = 27,75 m2 được đánh số thứ tự từ 01 đến 08 để bán bằng hình thức lập vi bằng và văn bản thoả thuận mua bán đất (do đất chưa được phép tách thửa).

Ngày 15/9/2017, Lê Tấn C mua căn nhà số 05, diện tích 27,75m2 với số tiền là 550.000.000 đồng, lập hợp đồng đặt cọc mua bán, bà Nguyễn Thị Kim L1 là người thỏa thuận mua bán giao nhận tiền và đứng tên người làm chứng trong hợp đồng. Đến ngày 03/11/2017, bà L1 nhận đủ tiền nên Lê Tấn C, Lê Khánh C1, Nguyễn Thị Kim L1 đến Văn phòng Thừa phát lại thị xã (nay là thành phố) TA lập Vi bằng ngày 03/11/2017 (gọi tắt là Vi bằng) và lập Văn bản thỏa thuận bán đất ngày 07/11/2017 (gọi tắt là Văn bản thỏa thuận) thể hiện việc mua bán căn nhà nêu trên.

Đến ngày 21/5/2018, Lê Tấn C bán lại căn nhà số 05 cho bà L1 với giá 550.000.000 đồng bằng hình thức lập hợp đồng đặt cọc và Cường giao bản chính vi bằng và văn bản thỏa thuận cho bà L1, cùng ngày bà L1 đặt cọc cho Lê Tấn C 100.000.000 đồng. Ngày 01/6/2018, bà L1 giao cho C 50.000.000 đồng, ngày 27/7/2018 bà L1 giao cho C 50.000.000 đồng. Đến ngày 24/12/2018, bà L1 giao cho C 300.000.000 đồng và C viết giấy tay mua bán nhà với bà L1 có bà Dương Thị A và bà Trần Thị Kim B làm chứng, đồng thời C thuê lại nhà để ở. Đến ngày 24/5/2019, C trả nhà cho bà L1 và lấy 50.000.000 đồng còn lại có vợ Cường là Trần Thị Diễm L2 ký nhận tiền.

Tại Kết luận giám định số 476/GĐ-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: chữ ký, chữ viết và dấu vân tay mang tên “Lê Tấn C” trên văn bản thỏa thuận, vi bằng và hợp đồng đặt cọc ngày 21/5/2018 do cùng một người ký, viết và in ra.

Khoảng tháng 01/2019, Lê Tấn C truy cập vào mạng xã hội tìm gặp một đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) đặt làm giả 05 bộ vi bằng, văn bản thoả thuận giả. Khoảng 01 tuần sau có một người nam (không rõ nhân thân, lai lịch) đến gặp C và giao cho C 08 bộ vi bằng, văn bản thoả thuận giả (được tặng thêm 03 bộ). Sau khi có các tài liệu giả, C đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cụ thể như sau:

1. Qua sự giới thiệu của ông Võ Văn S1 và bà Trần Thị Kh, C gặp và thỏa thuận với ông Võ Văn S vay số tiền 400.000.000 đồng và thế chấp căn nhà số 05 của C (đã bán cho bà Nguyễn Thị Kim L1). Ông S nói cho ông Trịnh Huy Th là bạn làm ăn cùng góp vốn mỗi người một nửa để cho vay, ông Th đồng ý. Ngày 05/11/2018, C đưa Vi bằng và văn bản thỏa thuận (bản phô tô và nói sẽ đưa bản chính sau) cho ông S, ông Th và lập hợp đồng mua bán nhà đất do ông Th đứng tên người mua có người làm chứng là ông S1. Sau khi trừ 02 tháng tiền lãi (05%/tháng), ông Th, ông S giao cho C số tiền 360.000.000 đồng. Khoảng 02 tuần sau, ông S, ông Th đưa cho C vay 100.000.000 đồng, trừ 02 tháng tiền lãi thì C nhận số tiền 90.000.000 đồng. Đến ngày 11/4/2019 C đưa bộ vi bằng và văn bản thỏa thuận giả cho ông Th, ông S lấy số tiền 150.000.000 đồng và C viết giấy tay mua bán nhà đất cho ông Th ngày 05/11/2018 với số tiền 650.000.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 476/GĐ-PC09 ngày 19/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: chữ ký, chữ viết và dấu vân tay mang tên “Lê Tấn C” trên hợp đồng mua bán nhà đất ngày 05/11/2018 do cùng một người ký, viết và in ra; văn bản thoả và 01 vi bằng là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử (bút lục 21, 22, 32-34, 170, 171, 196-205).

Như vậy, tổng số tiền Lê Tấn C chiếm đoạt của ông Trịnh Huy Th và Võ Văn S là 600.000.000 đồng.

2. Ngày 27/4/2019, Lê Tấn C tiếp tục sử dụng bộ vi bằng và văn bản thoả thuận giả thế chấp cho ông H Đình Tr để vay 100.000.000 đồng đảm bảo bằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất căn nhà số 05. Đến ngày 11/5/2019, C tiếp tục vay của ông Tr 90.000.000 đồng và lập giấy biên nhận thể hiện việc vay tiền.

Tại Kết luận giám định số 265/GĐ-PC09 ngày 02/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: chữ ký, dấu vân tay mang tên “Lê Tấn C”, “H Đình Tr” trên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất ngày 27/4/2019 và Giấy biên nhận ngày 11/5/2019 do cùng một người ký và in ra; 01 văn bản thoả thuận và 01 vi bằng là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử.

đồng.

Như vậy, Lê Tấn C đã chiếm đoạt của H Đình Tr 100.000.000 3. Lê Tấn C vay của ông Đậu Đức H1 100.000.000 đồng vào năm 2018.

Đến ngày 08/5/2019, C sử dụng bộ vi bằng và văn bản thoả thuận giả thế chấp cho ông H1 để vay 100.000.000 đồng, đảm bảo bằng hợp đồng mua bán nhà đất với số tiền 200.000.000 đồng và có Trần Thị Diễm L2 ký tên. Sau đó, ông H1 chỉ giao cho C 80.000.000 đồng, còn 20.000.000 đồng chưa giao.

Tại Kết luận giám định số 229/GĐ-PC09 ngày 19/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: chữ ký, chữ viết họ tên và dấu vân tay “Lê Tấn C”, chữ ký, chữ viết họ tên “Đậu Đức H1” trên Hợp đồng mua bán nhà đất ngày 08/5/2019 do cùng một người ký và viết, in ra; 01 văn bản thoả thuận và 01 vi bằng là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử.

Như vậy, Lê Tấn C đã chiếm đoạt của ông Đậu Đức H1 số tiền 80.000.000 đồng.

4. Ngày 10/5/2019, Lê Tấn C sử dụng bộ vi bằng và văn bản thỏa thuận thế chấp cho bà Trần Thị Kim L để vay 100.000.000 đồng và đảm bảo bằng hợp đồng mua bán nhà, đất căn nhà số 05.

Tại Kết luận giám định số 229/GĐ-PC09 ngày 19/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: chữ ký, chữ viết họ tên và dấu vân tay “Lê Tấn C”, chữ ký, chữ viết họ tên “Trần Thị Kim L” trên Hợp đồng mua bán nhà đất ngày 10/5/2019 do cùng một người ký và viết, in ra; 01 văn bản thoả thuận và 01 vi bằng là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử.

đồng.

Như vậy, Lê Tấn C đã chiếm đoạt của bà Trần Thị Kim L 100.000.000 Tổng số tiền Lê Tấn C chiếm đoạt của Trịnh Huy Th và Võ Văn S, H Đình Tr, Đậu Đức H1, Trần Thị Kim L là 880.000.000 đồng.

Lê Tấn C khai nhận Trịnh Huy Th, Võ Văn S, H Đình Tr, Trần Thị Kim L, và Đậu Đức H1 cho vay tiền với lãi suất cao có phí dịch vụ và phí hợp đồng hiện chưa có tài liệu chứng cứ thể hiện nên sẽ tiếp tục điều tra nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Trần Thị Diễm L2 hiện đã bỏ khỏi địa phương chưa tiến hành làm việc được. Tuy nhiên, Lê Tấn C khai việc C sử dụng vi bằng và văn bản thỏa thuận giả để vay tiền mua bán nhà đất với các bị hại, Li không biết nên không có căn cứ xử lý.

Đối với 100.000.000 đồng Lê Tấn C vay của ông Đậu Đức H1 và 90.000.000 đồng Lê Tấn C vay của ông H Đình Tr là giao dịch dân sự nên không đề cập xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: ông Trịnh Huy Th và Võ Văn S yêu cầu Lê Tấn C phải trả lại 600.000.000 đồng, ông H Đình Tr 100.000.000 đồng, ông Đậu Đức H1 80.000.000 đồng và bà Trần Thị Kim L 100.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2022/HS-ST ngày 13 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Tấn C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Tấn C 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2.2. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Tấn C 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Lê Tấn C phải chấp hành chung cho cả 02 tội là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/01/2020.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí sơ thẩm, lãi suất cùng quyền và nghĩa vụ trong thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 14/01/2022, bị cáo Lê Tấn C có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Lý do kháng cáo: Bị cáo cho rằng án sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 năm tù là quá khắc khe. Bị cáo không đồng ý với tội danh mà Tòa sơ thẩm đã tuyên. Vì thế, bị cáo kháng cáo xin Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay: Bị cáo Lê Tấn C thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung án sơ thẩm đã nêu trên nên bị cáo rút phần kháng cáo xin xem xét lại tội danh, bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Không cung cấp chứng cứ mới.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, trình bày: Tòa sơ thẩm tuyên bố bị cáo Lê Tấn C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan, sai. Đồng thời khi quyết định hình phạt Tòa sơ thẩm cũng đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo, mức hình phạt Tòa sơ thẩm đã tuyên là đã tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm không có tình tiết nào mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Luật sư H bào chữa cho bị cáo trình bày: Đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát kết luận nêu trên. Đối với kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Bị hại Sơn, Thanh cho bị cáo vay với mức lãi suất cao 5%/tháng bằng 60%/năm cao gấp ba lần mức lãi suất luật cho phép nên các bị hại cũng có lỗi; bị cáo thuê làm 08 vi bằng và văn bản thỏa thuận nhưng bị cáo chỉ dụng 04 vi bằng, văn bản thỏa thuận số còn lại bị cáo không sử dụng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản như án sơ thẩm đã nêu. Mặc dù, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào ngoài các tình tiết Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho bị cáo nhưng mức án 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” là quá khiêm khắc. Nên đề nghị Hội đồng xét xử xem chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về thủ tục: Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Kháng cáo của bị cáo là trong hạn luật định, hợp lệ nên vụ án được xem xét lại tại cấp phúc thẩm.

- Về nội dung:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Tấn C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung án sơ thẩm đã nêu trên. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác tại hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 21/5/2018, Lê Tấn C đã bán nhà đất (mua bằng vi bằng và văn bản thỏa thuận) tọa lạc tại khu phố BP, phường BN, thị xã (nay là thành phố) TA, tỉnh Bình Dương cho bà Nguyễn Thị Kim L1 rồi thuê lại để ở, nhưng từ ngày 05/11/2018 đến ngày 10/5/2019, Cường sử dụng vi bằng và văn bản thỏa thuận giả để thế chấp vay tiền với hình thức lập hợp đồng mua bán nhà đất với ông Trịnh Huy Th, ông Võ Văn S, ông H Đình Tr, ông Đậu Đức H1, bà Trần Thị Kim L để chiếm đoạt tổng số tiền là 880.000.000 đồng.

Trước khi thực hiện các hành vi nêu trên, bị cáo Cường đã cung cấp thông tin, yêu cầu đối tượng chưa rõ nhân thân lai lịch trên mạng xã hội làm giả cho bị cáo Vi bằng và Văn bản thỏa thuận, sau đó bị cáo đã nhận 08 bộ Vi bằng, Văn bản thỏa thuận (từ người không rõ họ tên, lai lịch) rồi bị cáo dùng các Vi bằng, Văn bản thỏa thuận này làm phương tiện để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các bị hại.

Với các hành vi trên Tòa sơ thẩm tuyên bố bị cáo Lê Tấn C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 215, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội không oan, sai.

[2] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xét: Khi quyết định hình phạt Tòa sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cụ thể:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Trong quá trình điều tra bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tại phiên tòa sơ thẩm người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo.

Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tòa sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không có tình tiết nào mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, không chấp nhận đề nghị của Luật sư, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

[4] Quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, án phí sơ thẩm; không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Tấn C; Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 13 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Tuyên bố bị cáo Lê Tấn C phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Tấn C 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2.2. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Tấn C 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

2.3. Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Lê Tấn C phải chấp hành chung cho cả 02 tội là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/01/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Tấn C theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Tấn C phải nộp 200.000 đồng.

4. Quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 305/2022/HS-PT

Số hiệu:305/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về