Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu, tài liệu, sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 108/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 108/2023/HS-PT NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU, SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 30-3-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 285/2022/TLPT-HS ngày 12-9-2022 đối với bị cáo Trần Ngọc Anh K, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2022/HS-ST ngày 04-8-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.

- Bị cáo kháng cáo:

Trần Ngọc Anh K, sinh năm 1987 tại Khánh Hòa; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở:, tỉnh Khánh Hòa; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Xây dựng; con ông Trần K và bà Nguyễn Thị N; vợ là Phạm Thị H và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 10-6-2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Khánh Hòa, có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo: Người bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc Anh K:

Luật sư Lê Văn T - Văn phòng Luật sư V, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Trịnh Thị Kim T, sinh năm 1980; địa chỉ cư trú: tỉnh Khánh Hoà, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa n i dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có quen biết từ trước nên khoảng đầu tháng 02-2020, Nguyễn Thị Thanh H đưa cho Phan Thanh S 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T235702 đứng tên ông, bà Lý Ái V và Nguyễn Thị Ngọc T, diện tích 4258 m2 tại xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa và 01 Chứng minh nhân dân số 220320854 cấp ngày 24-4-2011 đứng tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1950 để nhờ S đi đòi nợ giúp. Sau khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, S biết toàn bộ diện tích trong giấy đã được chuyển nhượng từng phần, chỉ có mảnh số: 644-1, diện tích: 1224,9 m2 là chưa thể hiện chuyển nhượng. Sau đó, S đến xem thực tế mảnh đất thì thấy đất trống, chưa xây nhà, nên nảy sinh ý định tìm người để lừa bán. Để người mua tin là thật, S phải làm giả được bản vẽ (Mảnh trích đo địa chính) và Phiếu xác nhận kết quả đo đạc có đóng dấu của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Khánh Hòa.

Để làm con dấu giả, tháng 3-2020, S đặt mua qua mạng 01 máy khắc dấu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi có máy khắc dấu giả, S sử dụng máy Laptop làm giả bản vẽ đề ngày 14-4-2020, Phiếu xác nhận kết quả đo đạc đề ngày 13-4-2020 theo đúng mẫu của Văn phòng đăng ký đất đai rồi in ra giấy. Đối với con dấu giả “Văn phòng đăng ký đất đai - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa”, S thực hiện bằng cách lấy mẫu dấu thật trên các văn bản, tài liệu có sẵn rồi sử dụng máy vi tính Scan mẫu dấu thật lưu vào máy vi tính, sử dụng thiết bị kết nối với máy khắc dấu đã mua rồi thực hiện các thao tác trên máy khắc dấu để làm ra con dấu giả. Sau đó, S cùng K bàn bạc và tiến hành ký giả lên các mục:

- Trần Ngọc Anh K ký giả chữ ký tại mục “Người biên tập - Huỳnh Thị L”, “Người kiểm tra - KS.Phí Đình T”, “Phó Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai - Hoàng Lê Lin”.

- S ký giả chữ ký tại mục “Người sử dụng đất - Nguyễn Thị Ngọc T”, ký nháy và viết chữ “KT” cạnh mục Giám đốc.

Sau khi có đầy đủ chữ ký tại các mục, S sử dụng con dấu giả bằng nhựa đóng dấu mộc đỏ “Văn phòng đăng ký đất đai - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa” lên Bản vẽ và Phiếu xác nhận kết quả đo đạc giả.

Sau khi làm xong bản vẽ, Phiếu xác nhận kết quả đo đạc giả, S bàn bạc với Trần Ngọc Anh K tìm người, dàn dựng giả người làm bà T và tìm người có nhu cầu mua đất để lừa bán lấy tiền, K đồng ý. S phân công K tìm 01 nam thanh niên giả làm con trai bà T. K đã rủ bạn là Trình Trọng T tham gia và T đồng ý giả làm con trai bà T. S tìm gặp và nói với Tô Vũ Ngọc Văn tìm người phụ nữ giả làm bà T và Văn giả làm chủ nợ đang cầm sổ đỏ của bà T. Văn đồng ý và tìm gặp Nguyễn Thị N để nhờ N đóng giả bà T, N đồng ý. Văn đưa ảnh của N cho S để S gỡ ảnh bà T rồi dán ảnh N vào Chứng minh nhân dân của bà T.

Sau khi biết bà Trịnh Thị Kim T là người tìm mua đất, chiều ngày 13-4-2020, S phân công K, Văn, T và N đảm nhận các vai diễn của từng người. S gọi điện thoại nói dối bà Trịnh Thị Kim T, thông qua người môi giới là Lê Quang Đ do bà T bị bệnh nên không đến Văn phòng Công chứng được mà giao dịch sẽ thực hiện tại Phòng số 1, Nhà nghỉ P 1, xã S, huyện D vào chiều ngày 14-4-2020.

Sáng ngày 13-4-2020, S thuê 01 xe ô tô tự lái hiệu Mazda 3, màu trắng, biển kiểm soát 79A - 140.02 của ông Nguyễn Ngọc H đưa xe cho K lái. Khoảng 09 giờ ngày 14-4-2020, K lái xe ô tô chở T vào nhà nghỉ P 1, xã S, huyện D gặp quản lý nhà nghỉ là bà Nguyễn Thị T đặt trước Phòng nghỉ số 1 và đưa cho bà T 200.000 đồng tiền thuê phòng.

Đến khoảng 14 giờ ngày 14-4-2020, K lái xe ô tô chở N (đóng giả bà T) cùng T vào Phòng số 1, Nhà nghỉ P 1 rồi lái xe về ngồi quán cà phê vỉa hè ở ngã tư đại lộ V - Quốc lộ 1A, xã V chờ điện thoại của T. Khoảng 14 giờ 30 cùng ngày, người môi giới là Lê Quang Đ, bà Trịnh Thị Kim T cùng chồng, lái xe và Công chứng viên Trần Vĩnh T (nhân viên Văn phòng công chứng H, thành phố Nha Trang) vào Phòng số 1, Nhà nghỉ P 1 để thực hiện giao dịch mua bán đất. Khi vào gặp bà T giả (do N đóng vai) và T, thì T điện thoại cho nhóm S. S nói K lái xe ô tô chở Văn (giả làm chủ nợ của bà T) cầm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào Phòng số 1 để lấy tiền chuộc giấy. Khi vào Phòng số 1, Văn đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bản vẽ thửa đất đề ngày 14-4-2020 cho nhóm bà T nhìn. Do tin là thật, bà T đưa túi tiền bên trong có 2.500.000.000 đồng cho Văn. Sau khi kiểm tra đủ tiền, Văn ôm túi tiền ra trước sân nhà nghỉ đợi K chạy xe ô tô đến rồi lên xe chạy về lại ngã tư V - Quốc lộ 1A.

Trong khi lập Hợp đồng chuyển nhượng, anh Trần Vĩnh T kiểm tra dấu vân tay thì nghi dấu vân tay của bà T giả (do N đóng vai) không giống với dấu vân tay trong Chứng minh nhân dân nên không công chứng và nói hai bên về Văn phòng Công chứng H để kiểm tra, thực hiện việc công chứng. Các bên thống nhất sáng ngày 15-4- 2020 sẽ đến lập hợp đồng tại Văn phòng Công chứng H.

Sau khi chiếm đoạt được 2.500.000.000 đồng của bà Trịnh Thị Kim T, S chia cho Văn 800.000.000 đồng (Văn lấy 500.000.000 đồng, chia cho Nguyễn Thị N 300.000.000 đồng); chia cho T 100.000.000 đồng; chia cho K 140.000.000 đồng; trả nợ cho Nguyễn Thị T H 670.000.000 đồng tiền vật liệu xây dựng, còn 790.000.000 đồng sử dụng tiêu xài cá nhân.

Đến tối ngày 14-4-2020, bà T kiểm tra biết bản vẽ thửa đất ngày 14-4-2020 nêu trên là giả, nên sáng ngày 15-4-2020 bà T đến Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa trình báo sự việc.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 1000/QĐ-CSHS ngày 18-9-2020 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa giám định:

chữ ký mang tên “Hoàng Lê Lin” và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: “Văn phòng đăng ký đất đai - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa” tại Bản vẽ của “Mảnh trích đo địa chính số 03 - 2020, hệ tọa độ VN-2000, tờ bản đồ số 04, đo đạc chỉnh lý tách thửa 644” so với chữ ký, con dấu của các mẫu so sánh thu thập tại Văn phòng đăng ký đất đai - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa. Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa đã có Kết luận giám định số 582/GĐTP/2020 ngày 28-9-2020 kết luận: Chữ ký và con dấu tại Mẫu cần giám định nêu trên là giả.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2022/HS-ST ngày 04-8-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Trần Ngọc Anh K 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo hải chấp hành chung cả hai tội là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10-6-2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 04 bị cáo khác, bồi thường dân sự, quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 16-8-2022, Trần Ngọc Anh K kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, Trần Ngọc Anh K kháng cáo xin giảm hình phạt; đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo, đề nghị giảm hình phạt; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Không nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa và bị cáo tranh luận công khai; nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị giảm hình phạt.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Khoảng đầu tháng 02-2020, sau khi có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lý Ái V và Nguyễn Thị Ngọc T, Phan Thanh S và Trần Ngọc Anh K đã có hành vi làm giả con dấu của Văn phòng đăng ký đất đai, Bản vẽ và Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất. Đến khoảng 15 giờ ngày 14-4-2020, tại Nhà nghỉ Phú Quý 1, xã S, huyện D, tỉnh Khánh Hòa, Phan Thanh S cùng Trần Ngọc Anh K, Tô Vũ Ngọc Văn, Trình Trọng T, Nguyễn Thị N sử dụng thủ đoạn gian dối như dùng Chứng minh nhân dân giả, Bản vẽ và Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất giả để chiếm đoạt của bà Trịnh Thị Kim T 2.500.000.000 đồng.

Hành vi nêu trên của Trần Ngọc Anh K đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về các tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo cùng đồng phạm là đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, gây mất trật tự trị an địa phương.

Trong vụ án này, Trần Ngọc Anh K thực hiện hành vi phạm tội với vai trò vừa là người thực hành, vừa là người giúp sức cho bị cáo Phan Thanh S làm giả các tài liệu, bản vẽ, phiếu xác nhận đo đạc, rủ rê lôi kéo Trình Trọng T rồi cùng các bị cáo khác dàn dựng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất để chiếm đoạt 2.500.000.000 đồng của bị hại, nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; đã bồi thường được một phần thiệt hại; sau khi phạm tội ra đầu thú, nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định đại điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo15 (mười lăm) năm tù về hai tội là thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, nhưng tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, phạm liền hai tội. Vì vậy, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài là điều cần thiết. Có như vậy, mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và không có cơ sở để chấp nhận.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4]. Về án phí:

Do kháng cáo không được chấp nhận, nên Trần Ngọc Anh K phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Anh K.

- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2022/HS-ST ngày 04-8-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về phần Trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trần Ngọc Anh K.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Trần Ngọc Anh K 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành chung cả hai tội là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày 10-6-2020.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Trần Ngọc Anh K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu, tài liệu, sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 108/2023/HS-PT

Số hiệu:108/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về