TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 294/2022/HS-PT NGÀY 09/08/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 09 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 173/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Do Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 01/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:
Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/01/1984 tại huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Tổ 8, thôn TM, thị trấn TM1, huyện N, tỉnh Quảng Nam; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: sửa xe; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1957 và bà Mai Thị H1, sinh năm 1957; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1989 và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 11/9/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”; tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 12 năm tù.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/5/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam. Có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại:
1. Ông Trần Thanh T1, sinh năm 1992. Vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
3. Bà Lê Thị Nh, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Tổ 4, thôn TM, thị trấn TM1, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ngân hàng N2.
Địa chỉ: Số 02 đường L, phường T2, quận B1, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông N H H, chức vụ: Trưởng phòng Kế hoạch - Kinh doanh Ngân hàng N2 - Chi nhánh huyện N, tỉnh Quảng Nam. Địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có đơn xin xử vắng mặt.
2. Ngân hàng TMCP V.
Địa chỉ: Số 89 đường L, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn T3, chức vụ: Trưởng Bộ phận Xử lý nợ pháp lý KHCN-MN_06. Địa chỉ: Tầng 4, số 112 đường P, quận H2, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1989. Địa chỉ: Tổ 8, thôn TM, thị trấn TM1, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 08/5/2020, Nguyễn Văn T đến Công an huyện N, tỉnh Quảng Nam tự thú nội dung trong thời gian từ đầu năm 2019 đến tháng 4/2020, Nguyễn Văn T đã nhiều lần đặt làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó sử dụng các giấy tờ giả này để thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cụ thể:
Lần thứ nhất: Năm 2018, Nguyễn Văn T mua 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA CERATO, biển kiểm soát 92A-101.59, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 020341 do Công an tỉnh Quảng Nam cấp ngày 05/01/2018. Ngày 12/01/2018, T làm hợp đồng vay trả góp tại Ngân hàng TMCP V (Ngân hàng V) Chi nhánh tỉnh Quảng Nam với số tiền 420.000.000 đồng, tài sản đảm bảo cho khoản vay là xe ô tô KIA CERATO, biển kiểm soát 92A-101.59 theo Hợp đồng thế chấp số LN1712250406369, Ngân hàng V giữ Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 020341 của Nguyễn Văn T.
Đầu năm 2019, do nợ nần nhiều nên T nảy sinh ý định làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 020341 để đi vay tiền trả nợ. T tìm và nhắn tin giao dịch với tài khoản Zalo “Hoàng Thức” có quảng cáo nhận làm các loại giấy tờ giả, người đàn ông chủ tài khoản này đồng ý làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô cho T với số tiền 2.500.000 đồng. T cung cấp thông tin Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 020341 cho Zalo “Hoàng Thức” biết, khi làm xong Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả thì người đàn ông này chụp hình gửi cho T xem, sau đó T đến Trung tâm Viettel huyện N chuyển số tiền 2.500.000 đồng vào số tài khoản có tên “Tiến” do Zalo “Hoàng Thức” cung cấp (T không biết lai lịch người đàn ông có Zalo “Hoàng Thức”, không nhớ tên chủ tài khoản, số tài khoản và Ngân hàng thụ hưởng, không nhớ ngày chuyển tiền). Khoảng 04 ngày sau T nhận Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả thông qua hệ thống chuyển phát nhanh, tuy nhiên bị sai nơi cấp là “Bình Phước” chứ không phải “Quảng Nam”. T nhắn tin cho Zalo “Hoàng Thức” để làm Giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 020341 lần thứ hai với số tiền 1.500.000 đồng, cách thức trao đổi và giao dịch cũng như lần trước.
Ngày 19/8/2019, T đem Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô đã được làm giả lần thứ nhất (sai địa chỉ ghi là “Bình Phước”) đến nhà ông Trần Thanh T1 thế chấp làm tin để mượn số tiền 40.000.000 đồng, do trước đó T có mượn của ông T1 số tiền 60.000.000 đồng (không có giấy vay mượn) chưa trả. Ông T1 không biết giấy tờ xe này là giả nên đồng ý cho T mượn thêm số tiền 40.000.000 đồng, cả hai thống nhất lập “Giấy mua bán xe chuyên dùng”, nội dung không ghi giá cả cụ thể, mục đích để đảm bảo khoản nợ của T, giấy này được chứng thực tại Ủy ban nhân dân (UBND) thị trấn TM1, đồng thời hai bên lập thêm một “Hợp đồng cho thuê xe”, với điều kiện là hàng tháng T phải trả tiền thuê xe cho ông T1 10.000.000 đồng. Sau đó, T đã trả cho ông T1 được 02 lần, mỗi lần 10.000.000 đồng thì mất khả năng chi trả.
Như vậy, sau khi mất khả năng chi trả số nợ 60.000.000 đồng cho ông Trần Thanh T1, Nguyễn Văn T đã dùng Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 020341 làm giả để thế chấp làm tin, chiếm đoạt của ông T1 số tiền 40.000.000 đồng.
Lần thứ hai: Ngày 12/12/2018, vợ chồng Nguyễn Văn T làm thủ tục vay Ngân hàng N2 (Ngân hàng N2) Chi nhánh huyện N, tỉnh Quảng Nam số tiền 500.000.000 đồng tại Hợp đồng tín dụng số 4212-LAV-201800643, tài sản thế chấp đảm bảo nghĩa vụ vay là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR 507794 do UBND huyện N cấp cho Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị Ch ngày 18/8/2015 với diện tích đất 100m2 tại tổ 8, thôn TM, thị trấn TM1, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Đầu tháng 12/2019, T nảy sinh ý định làm giả GCNQSDĐ nêu trên để thế chấp mượn tiền. T liên hệ với người đàn ông có Zalo “Hoàng Thức” để làm giả GCNQSDĐ số BR 507794 với giá tiền 8.000.000 đồng.
Ngày 10/12/2019, T đến nhà của bà Nguyễn Thị H giao dịch bán nhà và đưa GCNQSDĐ giả ra cho bà H xem, bà H đồng ý mua. T đem Giấy chứng minh nhân dân của bà H đi làm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, T giả chữ ký của vợ mình là Nguyễn Thị Ch vào hợp đồng, rồi đem đi xác nhận tại thôn TM và UBND thị trấn TM1. Sau đó, T đưa cho bà H Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng với GCNQSDĐ giả. T nói bà H đưa tiền cọc bán nhà là 120.000.000 đồng nhưng bà H chỉ đưa cho T 20.000.000 đồng và yêu cầu phải có vợ T ký vào giấy nhận cọc. Khoảng 17 giờ cùng ngày, T chở bà Nguyễn Thị Ch đến nhà bà H để cùng T ký vào giấy nhận tiền, bà H đưa thêm cho T số tiền 100.000.000 đồng.
Như vậy, thông qua giao dịch chuyển quyền sử dụng đất và nhà ở của vợ chồng Nguyễn Văn T tại tổ 8, thôn TM, thị trấn TM1, huyện N, tỉnh Quảng Nam, Nguyễn Văn T đã dùng GCNQSDĐ số BR 507794 giả, lừa dối chiếm đoạt số tiền đặt cọc 120.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị H.
Lần thứ ba: Tháng 8/2019, Nguyễn Văn T có mượn bà Lê Thị Nh số tiền 30.000.000 đồng chưa trả. Ngày 26/4/2020, T mang Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô KIA CERATO, biển kiểm soát 92A-101.59 đã được làm giả lần thứ hai đến nhà bà Nh để làm tin mượn thêm số tiền 40.000.000 đồng, bà Nh không biết đây là giấy tờ xe giả nên đã cầm giấy tờ xe này để làm tin. Khi nghe tin T vỡ nợ, bà Nh đã gọi vợ chồng T, Ch lên nhà rồi yêu cầu T viết giấy mượn tiền với số tiền 70.000.000 đồng.
Như vậy, khi mất khả năng chi trả số nợ 30.000.000 đồng đã mượn của bà Lê Thị Nh, ngày 26/4/2020 Nguyễn Văn T đã sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 020341 được làm giả lần thứ hai lừa đảo chiếm đoạt số tiền 40.000.000 đồng của bà Nh.
Tổng số tiền Nguyễn Văn T đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt của các bị hại trên địa bàn huyện N, tỉnh Quảng Nam là: 200.000.000 đồng.
Tại Bản kết luận giám định số 48/PC09 ngày 26/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: “GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT” số: BR 507794; mang tên ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1984; CMND số: 206053011; địa chỉ thường trú: khu phố 1, thị trấn Gò Dầu, TP. Tây Ninh và bà: Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1989; CMND số: 205384274; địa chỉ thường trú: thôn Đ1, xã Đ2, huyện Đ3, tỉnh Quảng Nam (ký hiệu A) là giả. (do bà Nguyễn Thị H giao nộp).
Tại Bản kết luận giám định số 55/PC09 ngày 03/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” số 020341, đứng tên chủ xe: Nguyễn Văn T, địa chỉ: TM, TM1, N, Q.N (Giấy làm lần 1 ký hiệu A1) là giả. “CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ XE Ô TÔ” số 020341, đứng tên chủ xe: Nguyễn Văn T, địa chỉ: TM, TM1, N, QN (Giấy làm lần 2 ký hiệu A2) là giả.
Ngoài ra, từ tháng 10/2019 đến ngày 18/4/2020, Nguyễn Văn T tiếp tục làm giả thêm Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô nhãn hiệu KIA CERATO, nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo thông qua hình thức cầm cố, sang nhượng xe ô tô bằng thủ đoạn dùng tiền lừa của người sau để trả cho người trước chiếm đoạt tổng số tiền 844.800.000 đồng của nhiều người trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Ngày 08/5/2020, thấy hành vi của mình sai trái, vi phạm pháp luật; Nguyễn Văn T đến trụ sở Công an huyện N tự thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 01/4/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 04 (Bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (Ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
- Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 07 (Bảy) năm tù.
- Áp dụng Điều 56 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 12 (Mười hai) năm tù tại Bản án số: 61/2021/HS-ST ngày 11/9/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 19 (Mười chín) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/5/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 12/4/2022, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm Nguyễn Văn T khai nhận do nợ nần ngoài xã hội và cần tiền tiêu xài nên bị cáo đã đặt làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Nguyễn Văn T và GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị Ch, bị cáo dùng giấy tờ giả này để lừa ông Trần Thanh T1, bà Nguyễn Thị H và bà Lê Thị Nh cầm cố xe ô tô và chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Mặc dù GCNQSDĐ của bị cáo hiện đang thế chấp tại Ngân hàng, số tiền chiếm đoạt được của các bị hại, bị cáo trả nợ cá nhân và tiêu xài. Bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội. Bị cáo xin rút đơn kháng cáo.
Ngày 13/4/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 15/QĐ-VKSQN, kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và xét xử bị cáo về hành vi “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giữ nguyên kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, tăng hình phạt đối với bị cáo và rút phần kháng nghị đề nghị xét xử bị cáo về hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã tuyên. Lời thú nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; kết luận giám định khoa học hình sự, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ được Cơ quan điều tra chứng minh có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận: Vì muốn có tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân, trong khoảng thời gian từ đầu năm 2019 đến cuối tháng 4/2020, Nguyễn Văn T đã nhiều lần đặt làm giả 02 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô nhãn hiệu KIA CERATO, biển kiểm soát 92A-101.59 và 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR 507794, sau đó sử dụng các giấy tờ giả này để (03 lần) thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tiền của các cá nhân trên địa bàn huyện N, tỉnh Quảng Nam như: ông Trần Thanh T1 số tiền 40.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị H số tiền 120.000.000 đồng, bà Lê Thị Nh số tiền 40.000.000 đồng, tổng cộng 200.000.000 đồng. Với nội dụng như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử Nguyễn Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo thì thấy, Nguyễn Văn T nhiều lần (03 lần) sử dụng các giấy tờ giả để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người, là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS; giá trị chiếm đoạt đến 200.000.000 đồng, chưa khắc phục hậu quả dù là ít nhất. Ngoài ra, khi biết mình không thể trốn thoát nên ngày 08/5/2020 bị cáo đến Công an huyện N, tỉnh Quảng Nam đầu thú, đây là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Như vậy, bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 và đầu thú khoản 2 Điều 51; một tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 nhưng cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 của BLHS, xử bị cáo 04 năm tù dưới khung hình phạt là nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội. Xét kháng nghị tăng hình phạt của Viện kiểm sát là có căn cứ cần chấp nhận. Bị cáo đã rút kháng cáo nên đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo.
[3] Đối với kháng nghị về tội danh thì thấy, tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã rút nội dung kháng nghị này nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị đề nghị xét xử bị cáo về hành vi “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng nghị đề nghị xét xử bị cáo về hành vi “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và chấp nhận một phần kháng nghị về phần hình phạt của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam và sửa án sơ thẩm về hình phạt.
Tuyên xử: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (Ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
- Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 10 (mười) năm tù.
- Áp dụng Điều 56 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 12 (Mười hai) năm tù tại Bản án số: 61/2021/HS-ST ngày 11/9/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 22 (hai hai) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/5/2020.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 294/2022/HS-PT
Số hiệu: | 294/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về