Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sn và làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 1047/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 1047/2022/HS-PT NGÀY 08/12/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Trong ngày: 08/12/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 860/2022/HSPT ngày: 03/11/2022; với bị cáo:

Kiều Văn H; do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đối với bản án sơ thẩm số: 244/2022/HS-ST ngày: 26/9/2022, của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Hà Nội.

Bị cáo: KIỀU VĂN H, sinh năm 1991; giới tính: nam; ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Trúc Động, xã Đ, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; họ tên bố: Kiều Văn H; họ tên mẹ: Phí Thị T; có vợ là Nguyễn Thị C (đã ly hôn) và 02 con;

Tiền sự: Không;

Tiền án:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2018/HSST ngày 25/9/2018 của tòa án nhân dân huyện Thạch Thất thành phố Hà Nội xử phạt Kiều Văn H 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, chưa được xóa án tích.

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2022/HSST ngày 28/3/2022 của Toà án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt Kiều Văn H 24 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2022/HS-ST ngày 24/6/2022 của Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xử phạt Kiều Văn H 17 năm tù về các tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản và Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại Tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội, trong vụ án do Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xét xử (Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2022/HS-ST ngày 24/6/2022 của Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội); có mặt tại phiên tòa tại điểm cầu thành phần.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Kiều Văn H có quen biết xã hội với ông Phạm Ngọc Tuấn, sinh năm 1971, địa chỉ: số 81 Phan Huy Chú, phường Yết Kiêu, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, H biết anh Tuấn làm dịch vụ cho thuê xe ô tô tự lái.

Khoảng tháng 9 năm 2020, do cần tiền chi tiêu cá nhân nên Kiều Văn H nảy sinh ý định chiếm đoạt xe ô tô của ông Phạm Ngọc Tuấn để bán cho người khác lấy tiền. Để thực hiện mục đích trên, ngày 19/9/2020, Kiều Văn H đến nhà ông Tuấn ký hợp đồng thuê của ông Tuấn 01 (một) chiếc xe ôtô nhãn hiệu Toyota Innova, BKS: 29A-739.46, số máy: 6395602, số khung:

779214259, thời hạn thuê 01 ngày với giá thuê xe 800.000 đồng/ngày. Khi thuê xe, H nói với ông Tuấn mục đích sử dụng đi công trình. Sau khi ký hợp đồng thuê xe, ông Tuấn bàn giao cho H: 01 (một) chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova BKS: 29A- 739.46; 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS: 29A-739.46 (bản phô tô); 01 (một) Giấy chứng nhận kiếm định xe ô tô BKS: 29A-739.46 (bản chính); 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự (bản chính). Ngay sau khi thuê được xe ô tô của ông Tuấn, H lên mạng xã hội Facebook (H không nhớ đã dùng tài khoản nào) đặt làm giả: 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Nguyễn Trung Thắng, địa chỉ: thôn 4, xã Canh Nậu, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, xe có số khung, số máy, biển kiểm soát trùng với số khung, số máy xe ô tô của ông Tuấn; 01 (một) Hợp đồng mua bán xe ô tô, bên bán Nguyễn Trung Thắng, bên mua Kiều Văn H, chứng thực của Văn phòng Công chứng Nguyễn Tú với giá 3.000.000 đồng. Khoảng 01 tuần sau, H nhận được các tài liệu giả đã đặt làm do một người đàn ông không quen biết giao hàng mang đến. Khoảng cuối tháng 9 năm 2020, H dùng bộ giấy tờ giả để bán chiếc xe ô tô thuê của ông Tuấn cho anh Tô Trọng Nhị, sinh năm 1988; nơi cư trú: thôn Báo Văn, xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc với số tiền 140.000.000 đồng, toàn bộ số tiền H tiêu xài cá nhân hết. Sau khi bán xe ô tô cho anh Nhị, H bỏ trốn, tắt điện thoại để ông Tuấn và anh Nhị không liên lạc được với H.

Sau khi mua xe ôtô BKS: 29A-739.46 của H, anh Nhị bán chiếc xe ô tô cho anh cấn Văn Hiên, sinh năm 1987; ĐKHKTT: thôn Đại Đồng Độ Lân, xã Mai, thị trấn Xuân Mai, huyện Chuơng Mỹ, thành phố Hà Nội với số tiền 182.000.000 đồng, H giao cho anh Hiên các giấy tờ kèm theo. Đến ngày 04/01/2021, anh Hiên bán xe ô tô BKS: 29A-739.46 cùng các giấy tờ giả trên cho anh Lê Đình Hà, sinh năm 1983; nơi cu trú: xã Đại Bản, huyện An Duơng, thành phố Hải Phòng với số tiền 205.000.000 đồng. Khoảng một tuần sau khi mua xe, anh Hà mang xe ô tô cùng các giấy tờ nêu trên đi đăng kiểm thì phát hiện các giấy tờ trên là giả và không đăng kiếm được, anh Hà mang xe ô tô đến trả lại cho anh Hiên, hai bên thoản thuận anh Hiên nhận lại xe và trả lại cho anh Hà số tiền 100.000.000 đồng. Sau khi nhận lại xe ô tô BKS: 29A-739.46, anh Hiên mang xe ô tô lên huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc để gặp anh Nhị, yêu cầu anh Nhị nhận lại xe ô tô và trả lại tiền cho anh Hiên nhung anh Nhị không đồng ý. Ngày 25/01/2021, anh Hiên đến Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc tố giác sự việc trên và giao nộp các giấy tờ liên quan.

Ngày 19/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc bàn giao hồ sơ và các tài liệu liên quan cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 22/4/2021, Kiều Văn H bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội khởi tố bị can và bắt bị can để tạm giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản do thục hiện hành vi khác tại địa bàn huyện Thạch Thất.

Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ do anh cấn Văn Hiên giao nộp tại Công an huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc gồm:

+ 01 (một) Hợp đồng mua bán xe ô tô BKS: 29A-739.46 giữa bên bán là Nguyễn Trung Thắng và bên mua là Kiều Văn H, có chứng thực và đóng dấu của Văn phòng Công chứng Nguyễn Tú, địa chỉ: số 92C Lý Thường Kiệt, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội;

+ 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô BKS: 29A-739.46;

+ 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô BKS: 29A-739.46;

+ 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 29A-739.46 mang tên Nguyễn Trung Thắng;

+ 01 (một) bản photo sổ hộ khẩu của gia đình Kiều Văn H.

- Thu giữ do anh cấn Văn Hiên tụ nguyện giao nộp tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông: 01 (một) chiếc xe ôtô nhãn hiệu Toyota Innova, sơn màu đen BKS: 29A-739.46, số khung: RL4XW43G779214259, số máy: 1TR6395602, đã qua sử dụng.

- Thu giữ do ông Phạm Ngọc Tuấn giao nộp 01 bản gốc Họp đồng thuê xe ôtô BKS: 29A-739.46 giữa Kiều Văn H và ông Phạm Ngọc Tuấn ký ngày 19/9/2020.

Tại Kết luận định giá tài sản số 301/KL-ITĐĐGTS ngày 04/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận:

01 (một) chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota innova BKS: 29A-739.46, SM:

1TR6395602, SK: 43G779214259, màu sơn đen trị giá 190.000.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 8364/KLGĐ-PC09-Đ3 ngày 27/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chữ viết dòng họ lên Kiều Văn H trên hợp đồng thuê xe ô tô với chữ viết đứng tên Kiều Văn H trên bản tự khai, tường trình của Kiều Văn H do cùng một người viết ra.

Tại Kết luận giám định số 1246/KL-PC09-ĐĐ3 ngày 21/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

1. Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 055898 là Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả;

2. Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Nguyễn Trung Thắng bên dưới mục bên bán trên Hợp đồng mua bán xe ô tô với chữ viết, chữ ký đứng tên Nguyễn Trung Thắng tại bản tường trình của Nguyễn Trung Thắng không phải do cùng một người ký, viết ra.

3. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký, chữ viết dòng họ tên Kiều Văn H dưới mục bên mua tại Hợp đồng mua bán xe ô tô với chữ ký, chữ viết đứng tên Kiều Văn H trên bản tự khai của Kiều Văn H có phải chữ do cùng một người ký, viết ra hay không.

5. Hình dấu tròn Văn phòng Công chứng Nguyễn Tú trên Họp đồng mua bán xe ô tô với hình dấu tròn của Văn phòng Công chứng Nguyễn Tú tại biên bản thu mẫu dấu không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Tại Kết luận giám định số 3351/KL-KTHS ngày 26/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova đeo biển kiểm soát: 29A-739.46 gửi giám định, hiện tại có số khung: -RL4XW43G779214259- và số máy: 6395602 1TR là số nguyên thuỷ.

Trong giai đoạn điều tra, Kiều Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 216/CT-VKS-HĐ ngày 30/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Kiều Văn H về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Bản án sơ thẩm số: 244/2022/HS-ST ngày: 26/9/2022, của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Hà Nội đã quyết định như sau:

“1. Tuyên bố bị cáo Kiều Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (tình tiết tái phạm); Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Kiều Văn H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (tình tiết tái phạm); Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đối, bố sung năm 2017, xử phạt bị cáo Kiều Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức.

- Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt chung của 02 tội buộc bị cáo Kiều Văn H phải chấp hành là 09 (chín) năm tù.

- Áp dụng khoản 5 Điều 65; Điều 56 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 12 (mười hai) tháng tù theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2018/HSST ngày 25/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xử phạt Kiều Văn H về tội Trộm cắp tài sản, hình phạt chung của hai bản án là 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.”… … - Bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự và án phí.

- Bị cáo có đơn kháng cáo đề ngày 30/9/2022, nội dung xin giảm mức hình phạt; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản kháng nghị số: 13/QĐ – VKSHN, ngày 25/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, nội dung đề nghị buộc bị cáo ngoài số tiền 40.000.000 phải trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bị cáo phải nộp lại 100.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án nêu trên.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Giữ nguyên nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo. Đề nghị sử bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 100.000.000 đồng để sung công.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

- Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Đơn kháng cáo của bị cáo, quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát thành phố Hà Nội về hình thức và thời hạn đúng theo quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

- Bản án sơ thẩm số: 244/2022/HS-ST ngày: 26/9/2022, của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Hà Nội tuyên bố bị cáo Kiều Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” là đúng người đúng tội đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù là tương ứng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

- Mức hình phạt về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo có phần nghiêm khắc do hậu quả vụ án đã được khắc phục. Do vậy chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

- Tòa án cấp sơ thẩm khi tổng hợp hình phạt đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2018/HSST, ngày 25/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội không trừ thời gian đã tạm giam trong vụ án này (Từ ngày 10/6/2018 đến ngày 08/8/2018) là thiếu sót. Do vậy trừ thời gian đã tạm giam này cho bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự bị cáo phải hoàn trả số tiền 140.000.000 đồng có được do bán tài sản phạm tội mà có cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bị cáo trả anh Tô Trọng Nhị số tiền 40.000.000 đồng là theo tự nguyện của anh Nhị, có căn cứ nên giữ quyết định này. Còn 100.000.000 đồng anh Nhị không yêu cầu bị cáo trả lại là tiền có được do phạm tội mà có nên chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải nộp lại số tiền này để sung vào ngân sách nhà nước.

- Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Từ nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Chấp nhận kháng nghị số: 13/QĐ – VKSHN, ngày 25/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Kiều Văn H.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 56 Bộ luật hình sự.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

- Xử phạt : Kiều Văn H 06 (sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội” Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội buộc bị cáo Kiều Văn H phải chấp hành là 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 12 (mười hai) tháng tù theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2018/HSST ngày 25/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xử phạt Kiều Văn H về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án hình phạt tù, được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 10/6/2018 đến ngày 08/8/2018 theo Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2018/HSST, ngày 25/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.

- Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

- Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

- Án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sn và làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 1047/2022/HS-PT

Số hiệu:1047/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về