TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 978/2023/HS-PT NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 627/2023/TLPT-HS ngày 23 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2023/HS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn C, sinh năm 1991 tại Nam Định. Nơi đăng ký thường trú: Thôn A, xã L, Huyện B, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: Hẻm G H, Phường I, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Lao động tự do; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Nguyễn Văn Đ; con bà: Ngô Thị T; vợ: Hà Tiểu M và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28/02/2022 đến nay, (Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L, có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Đình L - Văn phòng L1; Đoàn Luật sư tỉnh L, (có mặt).
Bị hại:
- Ông Lê Ngọc P, sinh năm 1990. Địa chỉ: Số B A, Phường B, thành phố Đ, Lâm Đồng, (vắng mặt).
- Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1968. Địa chỉ: Số I Thôn G, Phường B, thành phố Đ, Lâm Đồng, (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Thái S, sinh năm 1967. Địa chỉ: Số E H, Phường F, thành phố Đ, Lâm Đồng, (vắng mặt).
- Ông Trần Đình H, sinh năm 1970. Địa chỉ: Tổ E, thôn Đ, xã X, thành phố Đ, Lâm Đồng, (vắng mặt).
- Ông Trương Hoàng T1, sinh năm 1979. Địa chỉ: số F Đ, Phường G, thành phố Đ, Lâm Đồng, (vắng mặt).
(Trong vụ án còn có người có quyền và nghĩa vụ liên quan, do không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Văn C là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, vào khoảng năm 2019, bị cáo nảy sinh ý định làm 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân (CMND) giả không phải tên của bị cáo, mục đích để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Thông qua mạng xã hội Facebook, bị cáo đã đặt làm giả 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân đề số 2510439xx mang tên Nguyễn Xuân T2, sinh năm 1988, HKTT: thôn A, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, với giá khoảng từ 500.000đ đến 1.000.000đ (Năm trăm ngàn đồng đến một triệu đồng), do thời gian đã lâu nên bị cáo không nhớ rõ chính xác số tiền cụ thể. Các thông tin và hình ảnh trên CMND giả nêu trên là do bị cáo cung cấp cho đối tượng làm giả qua tin nhắn Facebook (hình ảnh trên CMND là hình chụp thật của bị cáo còn thông tin HKTT là thông tin giả mạo). Khoảng 01 tháng sau, bị cáo nhận được CMND trên từ một người giao hàng (không rõ nhân thân lai lịch) và trả tiền mặt trực tiếp cho người này.
Sau khi đặt làm CMND giả, bị cáo đã sử dụng để thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) của bị hại Lê Ngọc P như sau:
Đầu năm 2021, thông qua bạn bè bị cáo có quen biết với anh P, quá trình quen biết với anh P thì bị cáo giới thiệu mình tên là Nguyễn Xuân T2, tên thường gọi là C, đang công tác tại Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh L, có quen biết rộng, có thể làm được các thủ tục liên quan đến đất đai. Đầu tháng 10/2021, bị cáo biết anh P đang cần làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất ở khu H, Phường G, thành phố Đ nên bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh P thông qua việc nhận tiền để làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bị cáo yêu cầu anh P đưa cho bị cáo số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng) để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu anh P đưa trước 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) thì anh P đồng ý.
Ngày 26/10/2021, anh P gặp và giao số tiền 40.000.000đ cho bị cáo; anh P yêu cầu bị cáo viết giấy nhận tiền với nội dung bị cáo nhận tiền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bị cáo lại viết mượn tiền thể hiện nội dung: Tôi tên Nguyễn Xuân T2, SCM 2510439xx , Nơi ĐKHK: Thôn A, L, B, Lâm Đồng. Hôm nay ngày 26/10/2021 tôi có mượn của anh Lê Ngọc P số tiền 40.000.000đ. Tới ngày 15/02/2022 sẽ trả đầy đủ cho anh Lê Ngọc P, rồi đưa bản gốc CMND giả mang tên Nguyễn Xuân T2 cho anh Phú giữ; mục đích để anh P tin tưởng và sau khi chiếm đoạt tiền thì không bị anh P phát hiện và truy tìm. Sau khi nhận được số tiền 40.000.000đ của anh P thì bị cáo đã chiếm đoạt và sử dụng hết vào việc tiêu xài cá nhân.
Ngoài ra, cũng với thủ đoạn tương tự như trên, bị cáo còn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 04 người khác, cụ thể như sau:
1. Chiếm đoạt số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) của bà Nguyễn Thị Kim O như sau: Vào tháng 9/2021 con trai bà O là Nguyễn Tấn Đ1 là người có vi phạm pháp luật về ma túy nên Đinh Khắc Bảo T3 là vợ của Đ1 có gọi điện thông báo cho bạn của Đ1 là Trần Nguyễn Quang H1 biết việc Đ1 bị Công an thành phố Đ bắt giữ và hỏi H1 nhờ giúp đỡ. H1 nói với T3 là H1 có quen với bị cáo, qua một vài lần nhậu chung, H1 có nghe bị cáo giới thiệu bị cáo là Phó Đội trưởng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đ nên H1 điện thoại nhờ bị cáo hỏi về việc “chạy án” cho Nguyễn Tấn Đ1. Lúc này bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền nên đồng ý và nói có thể giúp Đ1 được hưởng án treo với chi phí 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) mặc dù bị cáo biết rõ việc làm này là vi phạm pháp luật và không ai có thể can thiệp giúp Đ1.
Thông qua H1, bị cáo yêu cầu gia đình của Đ1 chuẩn bị đưa trước cho bị cáo 03 phong bì, mỗi phong bì 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Tin tưởng bị cáo nên H1 có trao đổi lại với bà Nguyễn Thị Kim O là mẹ của Đ1 về nội dung trên; do thương con và thiếu hiểu biết pháp luật nên bà O tin tưởng, đồng ý đưa tiền cho bị cáo. Hai ngày sau, Trần Nguyễn Quang H1 cùng bà O đến gặp bị cáo tại quán C2 (trên đường T, phường C, thành phố Đ, Lâm Đồng) để trao đổi và đưa trước cho bị cáo số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng), được để trong 03 phong bì theo yêu cầu của bị cáo. Khoảng 04 - 05 ngày sau, bị cáo tiếp tục điện thoại cho bà O, yêu cầu đưa thêm tiền để lo việc cho Đ1 nhưng bà O nghi ngờ việc bị cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên không đồng ý đưa thêm tiền cho bị cáo. Sau khi nhận số tiền trên, bị cáo đã chiếm đoạt và sử dụng hết vào việc tiêu xài cá nhân.
2. Chiếm đoạt 77.250.000đ (Bảy mươi bảy triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) của ông Nguyễn Thái S, như sau: Tháng 11/2021, thông qua Vũ Minh C1, ông Nguyễn Thái S gặp và biết bị cáo. Biết ông S đang có nhu cầu làm thủ tục hoàn công nhà nên bị cáo giới thiệu mình tên là Nguyên Xuân T2, cán bộ Công an tỉnh L, có thể làm giấy tờ hoàn công đối với căn nhà của ông S. Để ông S tin tưởng, bị cáo đã đưa hình ảnh chụp CMND mang tên Nguyễn Xuân T2 trên điện thoại di động cho ông S xem (thời điểm này bản gốc CMND nói trên C đã đưa cho anh Lê Ngọc P giữ làm tin trước đó); bị cáo nói với ông S thời gian làm thủ tục hoàn công là một tháng rưỡi (45 ngày), với chi phí 140.000.000đ (Một trăm bốn mươi triệu đồng), tiền thuế ông S tự đóng, tin tưởng bị cáo nên ông S đồng ý. Theo yêu cầu của bị cáo, ông S đã giao trước cho bị cáo số tiền 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng) cùng bản phô tô công chứng các giấy tờ, tài liệu có liên quan gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy phép xây dựng, Giấy chứng minh nhân dân của ông S và Biên bản định vị móng; Sau đó ông S viết 01 giấy nhận tiền đưa bị cáo ký tên, bị cáo ký nhận tiền và ghi họ tên là Nguyễn Xuân T2. Ngày 20/12/2021, bị cáo tìm hiểu và biết được hồ sơ của ông S chưa đóng tiền thuế xây dựng nên bị cáo nảy sinh ý định tiếp tục chiếm đoạt thêm tiền của ông S bằng cách nói với ông S phải đưa thêm tiền cho bị cáo để C đóng thuế xây dựng giúp. Ông S tin tưởng và tiếp tục đưa thêm cho bị cáo số tiền 7.250.000đ (bảy triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng), hai bên không viết giấy giao nhận tiền. Sau khi nhận tiền tổng số tiền 77.250.000đ từ ông S, bị cáo đã chiếm đoạt, sử dụng hết để tiêu xài cá nhân.
3. Chiếm đoạt số tiền 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng) của Ông Trần Đình H, như sau: Vào tháng 12/2021 con trai của ông Trần Đình H là Trần Đình Anh V có vi phạm pháp luật về ma túy và bị Công an thành phố Đ bắt giữ. Lúc này Đào Thanh H2 là bạn của V có điện thoại thông báo và nói với ông H có muốn “chạy” cho V được tại ngoại hay không thì ông H đồng ý. Sau đó H2 điện thoại cho Nguyễn Mạnh T4 nhờ T4 hỏi giúp. Do trước đây T4 có gặp và quen biết với bị cáo, do bị cáo giới thiệu mình là Đội phó Đội Cảnh sát ma túy Công an thành phố Đ, tin tưởng bị cáo là cán bộ Công an thật, có thể giúp được cho V nên khi H2 gọi điện thoại cho T4 nhờ giúp thì T4 đồng ý và gọi điện thoại cho bị cáo hỏi về việc “chạy án” cho Trần Đình A V thì bị cáo đồng ý; bị cáo nói với T4 chi phí khoảng 60.000.000đ đến 70.000.000đ và yêu cầu T4 thông báo cho người nhà của V chuyển tiền trước cho bị cáo, và nói “khi nào có quyết định dừng điều tra, bị cáo sẽ chụp hình thông báo lại”;
Sau đó, T4 báo lại với ông Trần Đình H nội dung trên, do tin tưởng bị cáo có thể giúp cho con trai được tại ngoại nên ông H đồng ý đưa tiền theo yêu cầu của bị cáo. Chiều ngày 25/12/2021, T4 gặp ông H tại một quán cà phê trên đường M, thành phố Đ; Tại đây, ông H đã đưa cho T4 số tiền 70.000.000đ, sau khi nhận tiền từ ông H, T4 đến khu vực ngã ba cây xăng T, Phường A, thành phố Đ đưa toàn bộ số tiền trên cho bị cáo. Sau khi nhận số tiền 70.000.000đ của ông H, bị cáo đã chiếm đoạt và sử dụng hết vào việc tiêu xài cá nhân.
4. Chiếm đoạt số tiền 350.000.000đ (Ba trăm năm mươi triệu đồng) của vợ chồng anh Trương Hoàng T1, chị Võ Thị Mỹ H3, như sau: Vào khoảng tháng 12/2021, thông qua một số người quen thì bị cáo biết và gặp anh Trương Hoàng T1. Do biết anh T1 đang có nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng, tách thửa và làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là GCNQSDĐ) đối với mảnh đất của gia đình anh T1 tại Phường G, thành phố Đ. Khi gặp vợ chồng anh Trương Hoàng T1, chị Võ Thị Mỹ H3, bị cáo tự giới thiệu mình tên là Nguyễn Xuân T2, sinh năm 1988, là cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường tỉnh L, có thể làm được hồ sơ tách thửa, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, hoàn công các công trình tại địa bàn tỉnh Lâm Đồng; Để vợ chồng anh T1, chị H3 tin tưởng, bị cáo đưa hình ảnh chụp CMND mang tên Nguyễn Xuân T2 trên điện thoại di động của bị cáo cho vợ chồng anh T1 xem (lúc này bản gốc CMND trên C đã đưa cho anh Lê Ngọc P giữ làm tin trước đó) và nói sẽ giúp vợ chồng anh T1 chuyển đổi mục đích sử dụng, tách thửa và làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với chi phí là 350.000.000đ, thời gian làm xong là hai tháng rưỡi; bị cáo yêu cầu vợ chồng anh T1 phải đặt cọc trước 100.000.000đ, khi nào hoàn thành họa đồ của mảnh đất thì giao tiếp 100.000.000đ, số tiền 150.000.000đ còn lại sẽ giao khi làm xong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh T1; Ngày 28/12/2021, vợ chồng anh T1, chị H3 đã giao cho bị cáo số tiền 100.000.000d cùng bản phô tô Giấy chứng minh nhân dân của vợ chồng anh T1, chị H3; bản phô tô công chứng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Chị Võ Thị Mỹ H3 đã viết Giấy nhận tiền đề ngày 28/12/2021, bị cáo ký nhận tiền và ghi rõ họ tên là Nguyễn Xuân T2 rồi đưa cho chị H3 giữ. Sau đó, bị cáo đã thuê Công ty nhà đất đo vị trí đất, kiểm tra quy hoạch và vẽ họa đồ mảnh đất; đến ngày 17/01/2022, C mang họa đồ đến cho vợ chồng anh T1 xem, mục đích để lấy thêm tiền từ vợ chồng anh T1 nhưng do vợ chồng anh T1 chưa chuẩn bị đủ tiền nên bị cáo đã mang họa đồ về. Khoảng 02 ngày sau, bị cáo điện thoại yêu cầu anh T1 đưa thêm tiền, anh T1 đã đồng ý và đưa tiền mặt cho bị cáo 02 lần: Lần thứ nhắt 60.000.000đ, lần thứ hai 82.000.000đ.
Sau khi nhận tiền tổng cộng số tiền 242.000.000 đồng thì bị cáo ghi nội dung “Hôm nay 17/01/2022 đã nhận 242.000.000 đồng” vào Giấy nhận tiền đề ngày 28/12/2021 và ký ghi họ tên Nguyễn Xuân T2 rồi đưa cho vợ chồng anh T1 cất giữ. Đến ngày 27/01/2022, mặc dù bị cáo không liên hệ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh T1 nhưng để anh T1 tin tưởng về việc bị cáo đang lo làm thủ tục cho anh T1 nên bị cáo tiếp tục yêu cầu anh T1 giao bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Trương T5, địa chỉ F X, Phường G, Đ cho bị cáo để bị cáo làm thủ tục tách thửa, sang tên sổ đất mới cho anh T1, anh T1 đồng ý và giao bản chính sổ đất trên cho bị cáo.
Ngày 07/02/2022, bị cáo tiếp tục yêu cầu anh T1 chuyển thêm số tiền 50.000.000đ để đóng thuế ra sổ đất, do không có số tài khoản nên bị cáo đã nhờ Đào Hữu T6 và Nguyễn Nhật Q cho bị cáo sử dụng nhờ tài khoản Ngân hàng để anh T1 chuyển tiền vào cho bị cáo, bị cáo không nói cho T6 và Q biết về nội dung vụ việc. Theo yêu cầu của bị cáo, anh T1 đồng ý và chuyển số tiền 50.000.000đ cho bị cáo qua số tài khoản 5400.20.555.04xx của Đào Hữu T6. Ngày 16/02/2022, bị cáo tiếp tục yêu cầu anh T1 chuyển thêm tiền để hoàn tất thủ tục thuế, anh T1 đồng ý và chuyển cho bị cáo số tiền 58.000.000đ thông qua số tài khoản 1068.7252.13xx của Nguyễn Nhật Q.
Sau khi nhận tiền vào tài khoản thì anh T6, anh Q đã rút ra và đưa lại cho bị cáo. Bị cáo đã nhận tổng cộng số tiền 350.000.000đ của vợ chồng anh T1, chị H3, sau đó chiếm đoạt và sử dụng hết vào việc tiêu xài cá nhân.
Tổng cộng số tiền bị cáo đã chiếm đoạt của anh Lê Ngọc P, bà Nguyễn Thị Kim O, ông Trần Đình H, ông Nguyễn Thái S và anh Trương Hoàng T1 là 567.250.000đ. Hiện bị cáo và gia đình đã bồi thường, khắc phục toàn bộ số tiền chiếm đoạt nêu trên cho những người bị hại; bị cáo đã được anh Lê Ngọc P, anh Trương Hoàng T1 và ông Nguyễn Thái S, ông Nguyễn Đình H4 có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2022/HSST ngày 18 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm d khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C mức án 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C mức án 02 (hai) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chấp hành hình phạt chung cho cho cả hai tội là 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/02/2022.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về việc thi hành án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.
Ngày 24/7/2023, bị cáo Nguyễn Văn C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Bị cáo Nguyễn Văn C thừa nhận hành hành vi phạm tội như án sơ thẩm xét xử là đúng. Bị cáo và luật sư bào chữa yêu cầu Hội đồng xét xử giảm án đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì bị cáo chiếm đoạt số tiền chỉ hơn 500.000.000 đồng, khắc phục toàn bộ thiệt hại, được các bị hại xin giảm án, hình phạt 12 năm tù án sơ thẩm xử phạt là có phần nghiêm khắc.
- Đại diện Viện kiếm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, nội dung kháng cáo. Đề nghị: Giữ y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1.] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn C thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xét xử, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có lưu trong hồ sơ thể hiện: Do không có nghề nghiệp ổn định, để có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của người khác bằng cách đặt trên mạng Facebook để làm 01 chứng minh nhân dân giả và sử dụng chứng minh nhân dân giả này với tên Nguyễn Xuân T2, đồng thời đưa ra thông tin không có thật về việc bị cáo tên là Nguyễn Xuân T2, hiện đang công tác tại Công an tỉnh L, Công an thành phố Đ, thông tin không có thật về việc bị cáo là cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường tỉnh L, có quen biết rộng, có khả năng can thiệp giúp “chạy án”, giúp làm hồ sơ thủ tục nhà đất nhanh chóng để chiếm đoạt của anh Lê Ngọc P 40.000.000đ, bà Nguyễn Thị Kim O 30.000.000đ, ông Trần Đình H 70.000.000đ, ông Nguyễn Thái S 77.250.000đ và anh Trương Hoàng T1 350.000.000đ. Tổng số tiền chiếm đoạt của các bị hại là 567.250.000đ là có xảy ra trên thực tế nên án sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Bị cáo và bị hại không có kháng cáo tội danh và điều luật áp dụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2] Xét kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt đối của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra, bị cáo thừa nhận hành vi vi phạm như nêu trên và gia đình tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt hại; các bị hại có yêu cầu giảm án cho bị cáo, án sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có phần nghiêm khắc, bị cáo chỉ chiếm đoạt số tiền 567.250.000đ là ở mức khởi điểm của điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và được các bị hại có đơn yêu cầu giảm nhẹ hình phạt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và khắc phục toàn bộ thiệt hại.
[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không chịu án phí.
[4]. Đối với tội danh Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức và hình phạt 02 (hai) năm tù, bị cáo và Viện kiểm sát không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị [5]. Như đã phân tích, lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về cân nhắc khi quyết định hình phạt là phù hợp với nhận định của tòa án nên được chấp nhận, riêng việc đề nghị giữ y án sơ thẩm là không phù hợp nên không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 34/2023/HS-ST ngày 18/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh tỉnh Lâm Đồng về phần hình phạt đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tuyên xử:
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C, phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 09 (chín) năm tù.
4. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt 02 năm tù của tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức. Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/02/2022.
5. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 978/2023/HS-PT
Số hiệu: | 978/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về