Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 958/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 958/2023/HS-PT NGÀY 15/12/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Bản án số 958/2023/HS-PT ngày 15/12/2023 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Trong các ngày từ 11 tháng 12 đến 15 tháng 12 năm 2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 493/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 07 năm 2023, đối với các bị cáo: Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Đức L, Nguyễn Thị Kim T, Trần Quốc C, Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Hồng Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Do có kháng cáo của các bị cáo: Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Trần Quốc C, Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Hồng Q, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Đức L; Kháng cáo của các bị hại: Ông Nguyễn Minh T, bà Huỳnh Thị Ngọc H, bà Nguyễn Thị Kim A; Kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Thạch Văn Th, ông Nguyễn Hữu B, bà Nguyễn Thị Anh Th1, Công ty Cổ phần A D, Công ty TNHH Nội thất S, Công ty Cổ phần K C, Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại A Việt Nam, Công ty TNHH Kiến trúc OC, Công ty TNHH Phát triển, Cơ khí, Xây dựng, Thương mại NP, Công ty Cổ phần Viễn thông AC, Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại TVC, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 246/2023/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1293/2023/QĐPT-HS ngày 30 tháng 8 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Kim Bum J, sinh năm 1968 tại Hàn Quốc.

Nơi thường trú: Phòng 609 Chung cư P, Đường D1, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Giám đốc Công ty TNHH R Việt Nam, Công ty TNHH K A; Trình độ học vấn: Cử nhân; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Hàn Quốc; Con ông Kim Chan K và bà Seo Young J; Có vợ là Kim Eun H và 01 con sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 07/8/2020 (có mặt).

2. Nguyễn Thị H, sinh năm 1993 tại tỉnh Thanh Hóa.

Nơi thường trú: 379 Nguyễn T, Phường X, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Tổng quản lý Công ty TNHH R Việt Nam, Công ty TNHH K A; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Ch và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo chưa có chồng, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 07/8/2020 (có mặt).

3. Nguyễn Hoàng D, sinh năm 1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi thường trú: 32 Đường số X, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Phó Giám đốc Công ty R Việt Nam; Trình độ học vấn: Cử nhân; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Viết Th và bà Nguyễn Thị Đ; Có vợ là Lê Nguyễn Uyên Ph (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

4. Trần Quốc C, sinh năm 1985 tại tỉnh Bến Tre.

Nơi thường trú: 266/8 T, Phường X, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Trưởng phòng kinh doanh Công ty R Việt Nam; Trình độ học vấn: Thạc sĩ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Tr (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; Có vợ là Lê Thị Thanh T và 03 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

5. Ninh Thị Thanh T1, sinh năm 1978 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Nơi thường trú: 32 Lê Văn D, phường L, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Chỗ ở: Phòng 18-06 Chung cư A, Đường số X, phường A, Quận 2 (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Kế toán trưởng Công ty Đầu tư IDS C, Công ty IDS H; Trình độ học vấn: Cử nhân; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ninh Thế H và bà Bùi Thị T; Có chồng là Hoàng Đức L và 02 con sinh năm 2008 và năm 2002; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (vắng mặt).

6. Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1990 tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi thường trú: Ấp T, xã L, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Kế toán trưởng Công ty R Việt Nam, Công ty K A; Trình độ học vấn: Cử nhân; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S và bà Huỳnh Thị Ngọc C; Có chồng là Lê H và 01 con sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

7. Nguyễn Thị Hồng Q, sinh năm 1988 tại tỉnh Bình Định.

Nơi thường trú: Q, xã N, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định; Chỗ ở: 51C B 04, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Phụ trách kế toán Công ty R Việt Nam; Trình độ học vấn: Cử nhân; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc A và bà Lê Thị L; Bị cáo chưa có chồng, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

8. Nguyễn Đức L, sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi thường trú: 89/35 H, Phường X, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Trưởng phòng Công nghệ thông tin Công ty R Việt Nam, Công ty K A; Trình độ học vấn: Kỹ sư; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức L (đã chết) và bà Lê Thị Phương A; Có vợ là Tạ Huỳnh N (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người tham gia tố tụng khác:

1. Luật sư Nguyễn Trung Ch1, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Kim Bum J (có mặt).

2. Luật sư Nguyễn Trung Ch1, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị H (có mặt).

3. Các Luật sư: Lê Ngọc L, Võ Thị Anh L, Nguyễn Minh Q, Nguyễn Thị M, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Kim T (có mặt).

4. Các Luật sư: Lê Ngọc L, Võ Thị Anh L, Nguyễn Minh Q, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng D (có mặt).

5. Luật sư Quảng Khoa T, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh và Luật sư Phan Văn H, Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu bào chữa cho bị cáo Trần Quốc C (có mặt).

6. Luật sư Nguyễn Trung Ch1, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Ninh Thị Thanh T1 (có mặt).

7. Các Luật sư Ngô Huỳnh Phương Th2 và Nguyễn Thị M, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho Nguyễn Thị Hồng Q (có mặt).

8. Các Luật sư: Trần Thị Ngân H1 và Võ Thị Thu T2, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức L (có mặt).

Bị hại có kháng cáo:

1. Ông Nguyễn Minh T (có mặt).

Địa chỉ: A15.10 Chung cư D 2, 321 đường số X, Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên lạc: A2.1602 Chung cư O, Số 10 K, phường An Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2. Bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm 1975 (vắng mặt).

Địa chỉ: 31/3 G, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Văn X, sinh năm 1975 (có mặt).

Địa chỉ: 31/3 G, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Bà Nguyễn Thị Kim A sinh năm 1957 (có mặt).

Địa chỉ: Ẩp Tân Phú, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có kháng cáo:

1. Ông Thạch Văn Th, sinh năm 1945 (có mặt).

Địa chỉ: 21/9 L, Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Ông Nguyễn Hữu B, sinh năm 1976 (vắng mặt).

Địa chỉ: L2-09.11 V, Phường X2, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Bá H, sinh năm 1975 (có mặt).

Địa chỉ: 448/3 S, Phường X, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Bà Nguyễn Thị Anh Th1, sinh năm 1962 (vắng mặt).

Địa chỉ: T - Tower 1 - R02-3, Số 2 Đ, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 2000 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn L, N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

4. Công ty Cổ phần A D (Công ty D).

Địa chỉ: 99B C, Phường X, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thanh T, sinh năm 1986 (có mặt). Địa chỉ: 63 K, Phường X, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Công ty TNHH Nội thất S (Công ty Nội thất S).

Địa chỉ: 5A G, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức T; Chức vụ Giám đốc (có mặt).

6. Công ty Cổ phần K C (Công ty K C).

Địa chỉ: Phòng 701 Lầu 7, Số 3 Nguyễn L, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền:

Ông Trần Đức M, sinh năm 1975 (có mặt).

Ông Cao Công V, sinh năm 1997 (có mặt).

Ông Nguyễn Duy Ph, sinh năm 1983 (có mặt).

Ông Nguyễn Minh Q, sinh năm 1994 (có mặt).

Cùng địa chỉ: A243OT08, Tầng 43, Tòa A2 V, Số 02 T, phường B, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Huỳnh Thanh Th3, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

7. Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại A Việt Nam (Công ty A Việt Nam)

Địa chỉ: 2056/32/2 H, Đường V, thị trấn N, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Huy Nh; Chức vụ: Giám đốc (vắng mặt).

8. Công ty TNHH Kiến trúc OC (Công ty OC).

Địa chỉ: 26 Đ, Phường X, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Xuân B; Chức vụ Giám đốc:

(có mặt).

9. Công ty TNHH Phát triển, Cơ khí, Xây dựng, Thương mại NP (Công ty NP).

Địa chỉ: 125 Đường T 17, Đường V, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1987 (có mặt). Địa chỉ: 125 Đường T 17, Đường V, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

10. Công ty Cổ phần Viễn thông AC (Công ty Viễn thông AC).

Địa chỉ: 92K N, Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Bích D, sinh năm 1987 (có mặt).

Địa chỉ: 1532/5D đường V, khu phố X, phường A, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

11. Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại TVC (Công ty TVC).

Địa chỉ: 886 H, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn M; Chức vụ: Giám đốc (có mặt).

12. Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD (vắng mặt).

Địa chỉ: Lầu 1 Nhà B6 Số 268 L, Phường X, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người phiên dịch tiếng Hàn Quốc: Bà Đỗ Thị Hoài L – Phiên dịch viên tiếng Hàn Quốc, Công ty TNHH Thương mại và Dịch thuật KQ (có mặt).

Địa chỉ: Tầng 14, Tòa nhà H, 412 K, Phường X, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong vụ án có bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị cũng không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu năm 2015, Kim Bum J được một đối tượng người Hàn Quốc tên Kim Sung H giới thiệu là Tổng giám đốc Công ty IDS H Hàn Quốc, có chi nhánh ở nhiều nước, đề nghị Kim Bum J mở thêm chi nhánh của Công ty IDS H và làm người đại diện tại Việt Nam để kêu gọi đầu tư, huy động tài chính, theo thỏa thuận, Kim Bum J được hưởng 04%/tổng số tiền huy động, số tiền còn lại chuyển sang Hàn Quốc để đầu tư kinh doanh ngoại hối (forex).

Trong thời gian từ tháng 04/2015 đến tháng 10/2018, Kim Bum J đã thành lập 04 công ty để thực hiện việc huy động tài chính trái pháp luật. Thực tế, trong quá trình hoạt động, các công ty này không chuyển tiền sang Hàn Quốc đầu tư, không tiến hành các hoạt động kinh doanh như quảng cáo; tiền huy động của nhà đầu tư được sử dụng để chi trả lãi, hoa hồng cho người tham gia trước, chi phí hoạt động công ty, duy trì hệ thống và chiếm đoạt, sử dụng cho cá nhân, cụ thể việc thành lập, hoạt động của các công ty như sau:

1.1 Công ty TNHH Đầu tư IDS C (Công ty IDS C), do Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/4/2015; ngành, nghề đăng ký kinh doanh: Hoạt động tư vấn đầu tư, hoạt động tư vấn quản lý…, địa chỉ: Phòng 1, lầu 44, tòa nhà B, 02 H, phường B, Quận 1, MSDN: 031321619; Vốn điều lệ: 150 tỷ đồng; Đăng ký thay đổi thứ 3 ngày 27/4/2016; Người đại diện theo pháp luật là Đỗ Thị Thu T. Kim Bum J giữ chức vụ Giám đốc, là người điều hành mọi hoạt động Công ty; Nguyễn Thị H giữ chức danh quản lý, giúp Kim Bum J quản lý hoạt động công ty. Nội dung kêu gọi đầu tư như sau: Công ty IDS C giới thiệu với nhà đầu tư huy động tài chính để chuyển về công ty mẹ ở Hàn Quốc kinh doanh ngoại hối tại Hàn Quốc, chứng khoán tại Indonesia, đá phiến tại Hoa Kỳ, chính sách trả lãi từ 1,5%/tháng đến 1,8%/tháng tùy theo số tiền trên hay dưới 30.000 USD, thời hạn 6 tháng hoặc 12 tháng. Ngoài ra, để khuyến khích nhân viên huy động tài chính, công ty đưa ra chính sách trả hoa hồng từ 0,5% đến 2,1%/tháng trên số tiền huy động được; hoa hồng giám đốc từ 1,6% đến 1,9% trên tổng doanh số.

Từ ngày 12/10/2015 đến ngày 01/10/2016, Công ty IDS C do Kim Bum J đại diện đã ký kết 134 hợp đồng vay tài chính với tổng số tiền huy động được là 73.412.991.000 đồng, các hợp đồng này đều đã thanh lý.

1.2 Công ty Cổ phần đầu tư IDS H (Công ty IDS H), do Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp MSDN: 0313817939 ngày 20/5/2016; Địa chỉ: Phòng 1, Lầu 43A, Tòa nhà B, 02 H, phường B, Quận 1; Vốn điều lệ: 100 tỷ đồng tại lần đăng ký thay đổi thứ 1 ngày 15/6/2016. Người đại diện theo pháp luật: Kim Bum J, Chức danh: Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Giám đốc.

Công ty IDS H tiếp tục huy động tài chính như Công ty IDS C, đưa ra chính sách trả lãi từ 1,35%/tháng đến 1,8%/tháng tùy theo số tiền trên hay dưới 670.000.000 đồng, thời hạn 6 tháng hoặc 12 tháng, duy trì chính sách trả hoa hồng cho nhân viên, giám đốc, ngoài ra còn chi trả hoa hồng quản lý ở mức 0,1%/tháng trên tổng số tiền nhóm huy động được. Theo đó, từ ngày 10/10/2016 đến ngày 14/9/2017, Công ty IDS H do Kim Bum J đại diện đã ký kết 224 hợp đồng hợp tác kinh doanh với tổng số tiền huy động được là 91.233.922.914 đồng, các hợp đồng này đều đã được thanh lý (trong đó có một phần tiền sử dụng để thanh lý hợp đồng vay tài chính của Công ty IDS C).

Thực tế, Công ty IDS C, Công ty IDS H không chuyển tiền sang Hàn Quốc đầu tư, không hoạt động kinh doanh; nguồn tiền chi trả lãi, hoa hồng, hoạt động kinh doanh được trích từ số tiền huy động của nhà đầu tư (lấy tiền nhà đầu tư sau trả cho nhà đầu tư trước). Để có tiền trả lãi cho người đầu tư, duy trì hoạt động, Kim Bum J đã tiếp tục thành lập các công ty khác tiếp tục huy động tài chính.

1.3 Công ty TNHH R Việt Nam (Công ty R Việt Nam), do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp MSDN: 0314342237 ngày 11/4/2017; Địa chỉ: 22 Đ, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh; Vốn điều lệ: 100 tỷ đồng do Nguyễn Thị H giữ chức danh Giám đốc; Đăng ký thay đổi lần 1 ngày 05/6/2017 chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật thay đổi thành Kim Bum J.

Cuối năm 2016, Công ty IDS H Hàn Quốc phá sản, do không kinh doanh, không chuyển tiền ra nước ngoài để đầu tư, sử dụng tiền của nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng, chi phí duy trì hoạt động nên Kim Bum J liên hệ với Công ty R tại Hàn Quốc, sau đó thành lập công ty mới, giới thiệu là công ty con của Công ty R Hàn Quốc nhằm tiếp tục huy động tài chính. Kim Bum J chỉ đạo Nguyễn Thị H thành lập Công ty R Việt Nam giới thiệu nhà đầu tư sử dụng số tiền huy động được để thực hiện các hoạt động kinh doanh sau: Chuyển tiền cho Công ty R Hàn Quốc để kinh doanh ngoại hối; tổ chức các lớp dạy kinh doanh ngoại hối; kinh doanh quán cà phê R Talk, địa chỉ: 22 Đ, phường T, Quận 2 (Trụ sở Công ty R); thực hiện các dự án karaoke tại địa chỉ: 14F C, phường N, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (Công ty TNHH MTV Ăn uống P, MSDN: 0309593X); Câu lạc bộ Poker tại Quận 5 và Quận 7, giới thiệu cho khách hàng được hoạt động như casino.

Công ty R Việt Nam đưa ra chính sách trả lãi từ 1,45%/tháng đến 1,9%/tháng tùy theo loại tiền gửi là VND hay USD, thời gian gửi là 03 tháng, 06 tháng hoặc 12 tháng, tiếp tục duy trì chính sách trả quản lý và giám đốc, hoa hồng cho nhân viên điều chỉnh ở mức 0,5% - 0,7%/tháng.

Để huy động tài chính, Kim Bum J đã chỉ đạo soạn thảo hợp đồng hợp tác kinh doanh, cam kết với nhà đầu tư được: Nhận tiền phân chia lợi nhuận theo đúng thỏa thuận hợp đồng và không phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh. Không chịu bất kỳ sự chia sẻ rủi ro nào trong quá trình hợp tác kinh doanh. Được đảm bảo toàn bộ giá trị phần vốn góp.

Nhằm mục đích tạo niềm tin, trong quá trình hoạt động, Công ty R Việt Nam có trả tiền lãi đầy đủ cho các nhà đầu tư. Từ tháng 05/2017 đến tháng 02/2019, Kim Bum J đại diện Công ty R Việt Nam ký kết tổng cộng 1.499 hợp đồng, huy động được 490.434.923.158 đồng, đã thanh lý 1.122 hợp đồng với tổng số tiền 357.261.140.576 đồng, còn 377 hợp đồng chưa thanh lý với tổng số tiền 133.173.782.582 đồng, trong đó có 22 hợp đồng hợp tác kinh doanh Kim Bum J ký với chính mình với tổng số tiền 24.733.540.000 đồng (trích từ tiền hoa hồng giám đốc, được nhận hưởng hoa hồng đầu tư đầy đủ).

Quá trình hoạt động, Công ty R Việt Nam có phát sinh doanh thu tổng số tiền 5.413.551.332 đồng, gồm: Kinh doanh lớp dạy forex, quán café R Talk là 2.270.050.993 đồng; truy thu lãi, hoa hồng, chênh lệch tỷ giá, lãi tiền gửi là 3.143.500.339 đồng.

Tổng chi: 138.874.753.466 đồng, bao gồm: Tiền lương: 10.033.489.655 đồng; trả lãi nhà đầu tư, hoa hồng nhân viên: 65.250.464.448 đồng; trả hoa hồng giám đốc: 28.473.323.039 đồng; chi phí hoạt động: 10.794.514.538 đồng; chi chênh lệch tỷ giá: 750.873.767 đồng; chuyển tiền đi nước ngoài (Kim Bum J khai chuyển cho Công ty R Hàn Quốc): 15.678.376.500 đồng; chi liên quan đến lớp forex: 898.172.500 đồng; chi liên quan đến quán café R Talk: 6.495.539.019 đồng.

Mặc dù giới thiệu với nhà đầu tư sử dụng số tiền huy động để kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế thông qua Công ty R Hàn Quốc nhưng thực tế số tiền chuyển ra nước ngoài theo lời khai của Kim Bum J chỉ có 15.678.376.500 đồng; nguồn tiền chi trả lãi, hoa hồng, chi phí hoạt động đều lấy từ tiền huy động của nhà đầu tư.

1.4 Công ty TNHH K A (Công ty K A), do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp MSDN: 0314935526 ngày 21/3/2018; Địa chỉ: Lầu 55 Tòa nhà B, số 02 H, phường B, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; Vốn điều lệ: 200 tỷ đồng; Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật:

Nguyễn Thị H, Giám đốc; Thay đổi đăng ký lần thứ 1 ngày 21/5/2018, nội dung thay đổi người đại diện theo pháp luật thành Kim Bum J; đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 01/02/2019, nội dung thay đổi thành viên góp vốn Nguyễn Thị H (80%), Công ty K A Korea Co., Ltd (Hàn Quốc 20%).

Khoảng tháng 03/2018, vì thiếu tiền để chi trả chi phí hoạt động, trả lãi nhà đầu tư, Kim Bum J và Nguyễn Thị H tiếp tục thành lập Công ty K A huy động tài chính song song với R Việt Nam. Công ty K A tiến hành huy động tài chính bằng hình thức xây dựng hệ thống “Khanh Members”, phí đăng ký thành viên là 1.000 USD hoặc 2.000 USD (theo tỷ giá 1 USD = 22.700 đồng do công ty ấn định), được tặng 01 hoặc 02 điểm KFP (Khanh Face Point), nhận lãi cố định hàng ngày theo điểm KFP với tỷ lệ 01 USD/01KFP/ngày, được rút tiền khi đạt mức lãi từ 50 USD trở lên; để nhận được nhiều lãi, nhà đầu tư phải mua thêm điểm KFP với giá 1.000 USD/KFP theo một trong 02 gói: Đầu tư 6 tháng: Đầu tư tối thiểu 5.000 USD (5 KFP), được quyền rút tiền đầu tư sau 6 tháng, trả lãi hàng ngày tương ứng 1 USD/ngày/KFP, rút trước thời hạn bị truy thu 100% lãi đã nhận và Đầu tư nhân bản: Đầu tư thấp nhất 1.000 USD (quy đổi 1.000 USD = 2 KFP), không hoàn tiền đầu tư, điểm KFP được giữ vĩnh viễn, trả lãi hàng ngày vĩnh viễn tương ứng 1 USD/ngày/KFP.

Ngoài ra, nhà đầu tư còn được trả hoa hồng khi giới thiệu thành viên mới như sau: Thưởng điểm từ 01 đến 02 KFP cho mỗi thành viên mới gia nhập; hoa hồng giới thiệu 50 USD cho mỗi thành viên giới thiệu trực tiếp; hoa hồng cân nhánh 100USD khi có 02 thành viên giới thiệu trực tiếp được gắn vào nhánh phải và nhánh trái của người giới thiệu; hoa hồng khi thành viên nhánh dưới mua gói đầu tư.

Từ tháng 3/2018 đến tháng 02/2019, tổng số thành viên hệ thống Khanh Members là 799 thành viên, gồm cả thành viên Việt Nam và Hàn Quốc, với tổng số tiền đã huy động: 263.912.412.931 đồng, đã thanh lý 16.094.300.000 đồng, thực tế huy động được 247.818.112.931 đồng.

Nguồn tiền huy động được, Kim Bum J và các đối tượng có liên quan khai đã chi phí như sau: Chi hoa hồng Khanh Members 131.574.359.600 đồng; Chuyển R Việt Nam 38.192.672.780 đồng; Chi bảo hiểm xã hội, thuế 786.411.453 đồng; Thông qua pháp nhân Công ty KH, chi đặt cọc thi công, thuê mặt bằng tại Tòa nhà Paragon, Quận 7 31.642.068.812 đồng; Chi giấy phép Câu lạc bộ Poker 5.346.350.000 đồng; Thông qua pháp nhân Công ty K chi thuê tàu, trang trí nội thất 3.491.903.006 đồng; Chi spa Pioni 588.000.000 đồng; Chi giấy phép karaoke 3.877.650.000 đồng; Chi giấy phép Pachinko 1.396.650.000 đồng; Chi mua máy Pachinko 704.028.400 đồng (các dự án thực tế không hoạt động, riêng du thuyền nhà hàng chỉ hoạt động được 01 tháng, doanh thu 78.177.500 đồng).

Ngoài ra, Kim Bum J còn chỉ đạo thành lập các công ty gồm:

1.5. Công ty TNHH KH (Công ty KH) tại địa chỉ: Tầng 55, Tòa nhà B, 02 H, phường B, Quận 1, mã số doanh nghiệp: 0314854X do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/01/2018; Ngành, nghề kinh doanh: Điều hành tour du lịch; Vốn điều lệ: 250 tỷ đồng; Chủ sở hữu: Nguyễn Thị H; Người đại diện theo pháp luật: Kim Bum J – Giám đốc. Công ty KH được sử dụng để ký kết các hợp đồng thuê mặt bằng, thuê nhà thầu dự án Câu lạc bộ Poker.

1.6. Công ty TNHH MTV Ăn uống P (Công ty P), tại địa chỉ: 14F C, phường N, Quận 1, mã số doanh nghiệp: 0309593X do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 07/01/2010; Vốn điều lệ: 200 triệu đồng; Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Thị H, Giám đốc tại lần thay đổi thứ 2 ngày 24/5/2018. Sau khi chuyển đổi chủ sở hữu, người đại diện pháp luật Công ty P sang Nguyễn Thị H, nhà đầu tư được giới thiệu công ty mở rộng kinh doanh lĩnh vực karaoke thông qua Công ty P nhưng không thực hiện.

1.7. Công ty TNHH K (Công ty K), tại địa chỉ: Tầng 55, Tòa nhà B, 02 H, phường B, Quận 1, mã số doanh nghiệp: 0315329X do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 15/10/2018; Ngành, nghề kinh doanh: Điều hành tour du lịch; Vốn điều lệ:

50 tỷ đồng; Người đại diện theo pháp luật: Kim Bum J, Giám đốc. Công ty K được sử dụng để ký kết các hợp đồng thuê tàu, thuê nhà thầu thi công tàu Khanh Cruise.

1.8. Công ty TNHH R G (Công ty R G), tại địa chỉ: 22 Đ, phường T, Quận 2, mã số doanh nghiệp: 0314592X do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/8/2017; Vốn điều lệ: 200 tỷ đồng tại lần thay đổi thứ 2 ngày 18/10/2017; Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Thị H, Giám đốc. Công ty R G được sử dụng để thuê văn phòng tại tòa nhà B.

1.9. Công ty Cổ phần K R (Công ty K R), tại địa chỉ: Tầng 55, Tòa nhà B, 02 H, phường B, Quận 1, mã số doanh nghiệp: 0315191X do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30/7/2018; Vốn điều lệ: 100 tỷ đồng; Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Thị H, Giám đốc tại lần thay đổi thứ 2 ngày 24/5/2018, nhưng chưa hoạt động gì.

1.10. Công ty TNHH MTV K I (Công ty K I), tại địa chỉ: Tầng 55, tòa nhà B, 02 H, phường B, Quận 1, mã số doanh nghiệp: 0315114716 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 18/6/2018; Vốn điều lệ: 50 tỷ đồng; Người đại diện theo pháp luật: Trịnh Hồng Duy, Giám đốc, nhưng chưa hoạt động gì.

Kết quả khám xét trụ sở Công ty R Việt Nam, Công ty K A tại Lầu 55 Tòa nhà B, số 02 H, phường B, Quận 1, Cơ quan điều tra đã thu giữ máy tính của bộ phận kế toán cùng hợp đồng, hồ sơ kế toán, tài liệu liên quan khác còn lưu lại tại văn phòng công ty. Đồng thời, đã thu giữ các hồ sơ kế toán, hợp đồng liên quan khác do kế toán trưởng Nguyễn Thị Kim T cất giữ trước khi công ty ngừng hoạt động, T tự nguyện giao nộp.

Kết quả kiểm tra đối chiếu các tài liệu thu giữ xác định: Kim Bum J đã sử dụng các pháp nhân Công ty IDS C, Công ty IDS H, Công ty R Việt Nam, Công ty K A để huy động tài chính. Số tiền huy động được, Kim Bum J sử dụng để trả chi phí hoạt động công ty, trả lãi, hoa hồng, thanh lý các hợp đồng ký kết trước đó.

Kết quả xác minh tại Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh: Công ty IDS C từ khi thành lập (tháng 4/2015) đến tháng 12/2016: Không có hàng hóa, dịch vụ bán ra, không phát sinh doanh thu (không kê khai báo cáo thuế giá trị gia tăng). Công ty IDS H từ khi thành lập (tháng 5/2016) đến tháng 9/2018: Tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ bán ra chưa có thuế GTGT: 288.788.932 đồng, thuế GTGT: 28.878.893 đồng. Công ty R Việt Nam từ khi thành lập (tháng 4/2017) đến tháng 12/2018: Tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ bán ra chưa có thuế GTGT: 317.410.000 đồng, thuế GTGT: 31.X.000 đồng. Công ty K A, Công ty KH, Công ty K từ khi thành lập đến tháng 12/2018 đều không có hàng hóa, dịch vụ bán ra, không phát sinh doanh thu.

Kết quả xác minh tại Công ty TNHH B Văn phòng: Công ty IDS C đã thuê văn phòng tại Phòng số 1, Tầng 43A, tòa nhà B từ tháng 9/2015 đến tháng 4/2016, sau đó Công ty IDS H thuê từ tháng 04/2016 đến tháng 01/2018. Tổng số tiền thuê, chi phí điện, nước, máy lạnh, đậu xe và một số chi phí khác của 02 công ty là 4.262.309.459 đồng. Công ty R G đã thuê văn phòng tại tầng 55, tòa nhà B từ tháng 12/2017 đến tháng 6/2018, sau đó Công ty KH thuê từ tháng 07/2018 đến tháng 02/2019. Tổng số tiền thuê, chi phí điện, nước, máy lạnh, đậu xe và một số chi phí khác của 02 công ty là 8.177.359.701 đồng.

Kết quả xác minh tài khoản của Công ty R Việt Nam: Tài khoản số 1361000001X (VND) mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để nhận tiền của nhà đầu tư, chi trả lãi, hoa hồng. Tài khoản số 18610000164X (VND) mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để nhận tiền của nhà đầu tư. Tài khoản số 001710001770X (VND) mở tại Ngân hàng OCB được sử dụng để mở các sổ tiết kiệm, từ ngày 29/8/2017 đến ngày 17/10/2018, Công ty R Việt Nam đã mở tổng cộng 15 sổ tiết kiệm, thời hạn 01 tháng, tổng số tiền 87.200.000.000 đồng, các sổ tiết kiệm đã được tất toán. Tài khoản số 1801000011X (VND) mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để nhận tiền từ các tài khoản: Tài khoản số 1361000001X, tài khoản số 186100001X Công ty R Việt Nam mở tại Ngân hàng BIDV, tài khoản số 1801000012X của Công ty K A mở tại Ngân hàng BIDV, dùng để chi thanh lý hợp đồng hợp tác kinh doanh của nhà đầu tư Công ty R Việt Nam, chi lãi hợp đồng, hoa hồng nhân viên. Tài khoản số 1801000012X (VND) được sử dụng để thanh toán các khoản chi có hợp đồng, hóa đơn GTGT, nộp thuế, bảo hiểm xã hội. Tài khoản số 026100346X (VND) mở tại Ngân hàng Vietcombank dùng để nhân viên quán Café R Talk nộp tiền doanh thu. Tài khoản số 1801000012X (VND) được sử dụng để nhận tiền thanh toán (POS) của thực khách quán café R Talk.

Kết quả xác minh tài khoản của Công ty K A: Tài khoản số 1801037000X (USD) mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để nhận tiền USD của thành viên Khanh Members chuyển từ Hàn Quốc về Việt Nam. Tài khoản số 1861000016X (VND) mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để nhận tiền đầu tư của Khanh Members Việt Nam, Khanh Members Hàn Quốc. Tài khoản số 1801000012X (VND) và tài khoản số 1801000015X (VND) mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để chi trả lãi cho thành viên hệ thống Khanh Members. Tài khoản số 1801000013X (VND) mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để thanh toán các khoản chi có hợp đồng, hóa đơn GTGT và nộp thuế.

Kết quả xác minh tài khoản của Nguyễn Thị H: Tài khoản số 180100012X mở tại Ngân hàng BIDV được sử dụng để chi trả hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019. Tài khoản số 007100127X mở tại Ngân hàng Vietcombank được sử dụng để nhận tiền mua bán bitcoin.

Kết quả xác minh tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 03 công ty gồm Công ty R Việt Nam, Công ty K A, Công ty KH không thuộc đối tượng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức khác do Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động, không được thực hiện hoạt động ngoại hối trên thị trường quốc tế; không được thực hiện kinh doanh, cung ứng nghiệp vụ nhận tiền; chỉ có tổ chức tín dụng được phép là chủ thể được thực hiện kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế cho chính tổ chức đó, không làm dịch vụ kinh doanh ngoại hối cho khách hàng.

Kết quả xác minh tại Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh: Sở Công thương chưa nhận, chấp thuận hồ sơ đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty K A trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp. Website www.khanhmembers.com không thực hiện việc thông báo/đăng ký với Bộ Công thương theo quy định tại Điều 27 Nghị định 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ.

Kết quả xác minh tại Sở Tài chính Thành phố Hồ Chí Minh: Tại Sở Tài chính không có hồ sơ pháp lý về đăng ký kinh doanh trò chơi có thưởng dành cho người nước ngoài của Công ty R Việt Nam, Công ty K A và Công ty KH.

Kết quả xác minh tại Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh: Sở Giáo dục và Đào tạo không cấp phép hoạt động giáo dục đối với khóa học về ngoại hối (forex) cho Công ty R Việt Nam.

Kết quả xác minh tại Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh: Sở Văn hóa và Thể thao chưa tổ chức hoặc cho phép các đơn vị tổ chức thi đấu có ăn tiền môn Bridge và Poker.

Kết quả xác minh tại Hiệp hội thể thao Bridge và Poker Việt Nam; Ủy ban nhân dân Quận 7; Ủy ban nhân dân phường Bình Thuận, Ủy ban nhân dân Phường X, Quận 5; Bộ Xây dựng, Ban Quản lý đầu tư và xây dựng Khu đô thị mới Nam Thành phố Hồ Chí Minh, xác định: Câu lạc bộ Bridge và Poker Nam Sài Gòn thuộc Công ty KH do Nguyễn Thị H làm giám đốc, có đăng ký là thành viên Hiệp hội thể thao Bridge và Poker Việt Nam. Tuy nhiên, không có giấy phép hoạt động của chính quyền địa phương, không có hoạt động và báo cáo hoạt động theo quy chế. Do đó, Câu lạc bộ Nam Sài Gòn bị khai trừ tư cách hội viên từ ngày 19/3/2019. Đồng thời, các hoạt động casino, quy đổi thẻ thành tiền theo như quảng cáo của Công ty R Việt Nam là hình thức cờ bạc, gá bạc vi phạm pháp luật và bị cấm trong hoạt động thể thao này.

Từ năm 2016 đến nay, Công ty P chưa nộp hồ sơ tại Sở Văn hóa và Thể thao để gia hạn Giấy phép kinh doanh Karaoke ở địa chỉ kinh doanh 14F C, phường N, Quận 1.

Kết quả xác minh tại một số công ty thi công nội thất, cung cấp dịch vụ ăn uống tàu Khanh Cruise xác định: Kim Bum J có ký các hợp đồng thuê tàu, thi công nội thất, cung cấp thức ăn, rượu cho tàu Khanh Cruise với tư cách Giám đốc Công ty K. Từ ngày 17/01/2019 đến ngày 14/02/2019, tàu Khanh Cruise hoạt động 07 ngày thì ngưng hoạt động, tàu trả lại cho chủ sở hữu.

Kết quả xác minh tại Công ty K C, đơn vị cho thuê mặt bằng lầu 5 Tòa nhà Sài Gòn Paragon, đại diện các nhà thầu dự án Câu lạc bộ Poker xác định: Công ty KH do Kim Bum J, chức vụ Giám đốc làm đại diện có ký hợp đồng thuê mặt bằng tại Lầu 5 tòa nhà Paragon, đã chuyển tiền cọc nhưng chỉ lắp đặt hệ thống camera, nhà tạm, chưa triển khai thi công.

Tại Cơ quan Điều tra, các bị cáo và những người liên quan khai nhận như sau:

Kim Bum J thừa nhận việc huy động tài chính bằng 04 pháp nhân nêu trên, bản thân không góp vốn vào công ty nào và khai: Năm 2015, Kim Bum J quen biết Kim Sung-Hun, Tổng giám đốc Công ty IDS H Hàn Quốc, thỏa thuận về việc thành lập công ty tại Việt Nam để huy động tài chính, chuyển sang Hàn Quốc để kinh doanh ngoại hối tại nước ngoài. Kim Bum J được dùng tiền huy động để chi trả hoạt động công ty, được giữ lại 4% tổng tiền huy động để chi trả lãi, hoa hồng. Thực hiện thỏa thuận, Kim Bum J đã thành lập Công ty IDS C, IDS H và tiến hành huy động tài chính nhưng không chuyển tiền cho Công ty IDS H Hàn Quốc để kinh doanh ngoại hối, cũng không hoạt động kinh doanh khác, lấy tiền của nhà đầu tư sau chi trả cho nhà đầu tư trước. Sau khi Công ty IDS H Hàn Quốc phá sản, để có tiền chi trả lãi, hoa hồng, duy trì hoạt động công ty, tháng 5/2017, Kim Bum J thành lập Công ty R Việt Nam, huy động tài chính với phương thức tương tự 02 công ty trên. Kim Bum J cho rằng nếu giảm lãi suất thì nhà đầu tư rút tiền và không có tiền trả lại nên đến tháng 04/2018 Kim Bum J tiếp tục huy động tài chính thông qua hệ thống Khanh Members, duy trì 02 hệ thống R Việt Nam, Khanh Members cho đến khi ngừng hoạt động. Kim Bum J thừa nhận có nhận hoa hồng giám đốc, một phần hoa hồng được chuyển thành các hợp đồng đứng tên Kim Bum J và nhận lãi từ các hợp đồng này.

Căn cứ sổ sách kế toán thu được xác định có việc Kim Bum J giao nhận tiền lãi, hoa hồng bằng tiền mặt, có lập các phiếu chi và ghi nhận vào sổ nhật ký kế toán (các tài liệu đều được Kim Bum J ký trước khi chi). Kim Bum J khai số tiền hoa hồng, lãi nêu trên được Kim Bum J sử dụng để chi thưởng nhân viên 500 USD/tháng, tiếp khách Hàn Quốc sang Việt Nam, chi tạo quan hệ và sử dụng cá nhân. Kim Bum J thừa nhận số liệu trên hệ thống sổ sách cơ quan điều tra đã thu giữ.

Trên cơ sở tài liệu đã thu giữ đã xác định: Từ tháng 10/2015 đến tháng 02/2019, Kim Bum J được hưởng lợi 40.736.579.453 đồng (bao gồm: Tiền lương 2.761.327.656 đồng; hoa hồng giám đốc là 48.066.324.849 đồng nhưng thực tế nhận tiền mặt số tiền là 23.332.784.849 đồng; chỉ đạo nhân viên trích tiền hoa hồng giám đốc, lập thành 22 hợp đồng hợp tác kinh doanh đứng tên Kim Bum J với tổng số tiền 24.733.540.000 đồng để nhận lãi, hoa hồng; nhận lãi, hoa hồng hợp đồng hợp tác kinh doanh đứng tên Kim Bum J là 12.252.846.948 đồng, nhận khoản chi lợi nhuận từ K là 929.600.000 đồng và khoản tiền 1.460.020.000 đồng từ hợp đồng của bà Lê Thị Oanh).

Nguyễn Thị H, là Tổng quản lý toàn bộ các hoạt động công ty (theo sơ đồ tổ chức thu giữ tại Công ty R Việt Nam), khai: H làm việc cho Kim Bum J từ năm 2015 với vai trò quản lý nhân sự, trợ lý giám đốc, giúp Kim Bum J quản lý mọi hoạt động của công ty trong đó có nhận báo cáo hợp đồng thể hiện số tiền nhà đầu tư gửi, thời hạn, lãi suất, hoa hồng, nhận tin nhắn SMS ngân hàng thông báo thu chi tài khoản công ty, giúp Kim Bum J đối chiếu số liệu trước khi ký phiếu chi và kiểm tra việc chi tiền. Quá trình làm việc, H đã được kế toán Nguyễn Thị Hồng Q báo về khoản nợ nhà đầu tư do không hoạt động kinh doanh, đề nghị đẩy mạnh huy động vốn để không bị thiếu hụt khi nhà đầu tư rút tiền. H cho rằng mình không biết Công ty IDS C, IDS H, R Việt Nam sử dụng tiền huy động của chính các nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng, tiền thanh lý hợp đồng, chi phí hoạt động công ty. Ngoài ra, theo chỉ đạo của Kim Bum J, H đứng tên thành lập các công ty gồm Công ty R Việt Nam, K A.

Từ tháng 12/2015 đến tháng 01/2019, Nguyễn Thị H hưởng lợi 2.094.053.004 đồng (trong đó, lương 1.194.253.554 đồng, hoa hồng nhân viên, lãi từ hợp đồng đứng tên H là 64.090.000 đồng, lãi, hoa hồng Khanh Members là 247.709.450 đồng, nhận tiền đầu tư spa Pioni từ công ty là 588.000.000 đồng).

Mặc dù thừa nhận vai trò trợ giúp giám đốc quản lý các hoạt động của công ty nhưng H cho rằng chỉ giữ chức vụ quản lý hành chính nhân sự, trợ lý giám đốc, tiền lương, hoa hồng nhân viên, lãi từ hợp đồng đứng tên H cũng như số tiền 588.000.000 đồng nhận từ công ty để cùng đầu tư spa là công sức làm việc của bản thân, hưởng theo chính sách của công ty.

Ninh Thị Thanh T1, Kế toán trưởng làm việc tại công ty từ tháng 11/2015 đến tháng 7/2017, khai: Theo chỉ đạo của Kim Bum J, tháng 02, 03/2016, T đã tìm hiểu, được tư vấn về các hình thức được phép huy động tài chính hợp pháp, nhận tiền gửi bao gồm ngân hàng, công ty tài chính, công ty quản lý quỹ nhưng điều kiện thành lập phức tạp, vốn pháp định lớn, chịu sự quản lý, giám sát của ngân hàng, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, không thể chuyển tiền ra nước ngoài và gửi email báo cáo cho Kim Bum J, Nguyễn Thị H biết. Tuy nhiên, sau đó Kim Bum J lại thành lập các công ty cổ phần, công ty TNHH để tiến hành huy động tài chính. Hàng tháng, T gửi email các báo cáo hợp đồng, báo cáo tình hình thu – chi cho Kim Bum J, Nguyễn Thị H, nội dung thể hiện công ty sử dụng tiền của nhà đầu tư để chi trả các chi phí phát sinh; Bản thân T biết các Công ty IDS C, IDS H, R Việt Nam không có vốn chủ sở hữu; Công ty IDS C, IDS H không hoạt động kinh doanh, Công ty R Việt Nam có mở quán café, lớp dạy forex nhưng luôn lỗ, các công ty hoạt động bằng nguồn tiền huy động được từ các nhà đầu tư nhưng được Kim Bum J trấn an về nguồn tiền từ nước ngoài chuyển về nên tiếp tục làm việc. Ngoài vai trò kế toán trưởng, T còn trực tiếp đầu tư để hưởng lãi suất cao, tìm kiếm nhà đầu tư để hưởng hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý. Từ tháng 12/2015 đến tháng 01/2018, T hưởng lợi là 2.570.722.598 đồng (bao gồm, lương 525.290.080 đồng, hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý, lãi từ hợp đồng đứng tên Ninh Thị Thanh T1 là 3.611.228.518 đồng, trong đó T đã trích trả hoa hồng cho cộng tác viên với tổng số tiền là 1.565.796.000 đồng).

Nguyễn Thị Hồng Q, phụ trách kế toán từ tháng 4/2017 đến tháng 02/2018, khai: Sau thời gian phụ trách kế toán, Q nhận thấy Công ty R Việt Nam mở quán café, lớp dạy forex tại Quận 2 nhưng luôn phải bù lỗ, chuyển tiền đi nước ngoài không thu được lợi nhuận, không nhận lại tiền gốc, ngoài ra không có hoạt động kinh doanh khác; Nguồn tiền chi trả lãi, hoa hồng, chi phí duy trì hoạt động lấy từ tiền huy động của nhà đầu tư, phát sinh số tiền nợ rất lớn nên ngày 17, 18/8/2017, Q gửi email kèm file báo cáo thu chi nội bộ cho Nguyễn Thị H, cho biết công ty nợ 71.258.527.729 đồng, đề nghị tiết kiệm, đẩy mạnh huy động vốn để không bị thiếu hụt khi khách hàng muốn rút tiền, đề nghị H trao đổi cùng Kim Bum J để giải quyết tình hình; Đồng thời, Q nhiều lần trực tiếp báo cáo tình hình tài chính cho Kim Bum J, đề nghị trích một phần hoa hồng giám đốc để đầu tư lại vào công ty, được Kim Bum J trấn an công ty sẽ hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận nên tiếp tục làm việc; Đến tháng 02/2018, tình hình hoạt động công ty không thay đổi, do lo lắng nên Q nghỉ việc. Ngoài phụ trách kế toán, Q trực tiếp đầu tư để hưởng lãi suất cao, tìm kiếm nhà đầu tư để hưởng hoa hồng nhân viên, nhận tiền lãi từ Khanh Members, các hợp đồng do Q giới thiệu, trực tiếp đầu tư đã được thanh lý. Từ tháng 5/2017 đến tháng 02/2018, Nguyễn Thị Hồng Q hưởng lợi 295.340.937 đồng (trong đó, lương là 201.272.587 đồng, hoa hồng nhân viên, lãi từ hợp đồng đứng tên Q là 87.020.000 đồng, lãi từ Khanh Members là 7.048.350 đồng).

Nguyễn Thị Kim T, là Kế toán trưởng, khai: T làm việc từ tháng 12/2017 đến tháng 02/2019. Đầu tháng 02/2018, khi Nguyễn Thị Hồng Q nghỉ việc, T được bổ nhiệm kế toán trưởng, các tài khoản Công ty còn khoảng 10 tỷ đồng trong khi tổng số tiền huy động của nhà đầu tư của Công ty K I, IDS H, R Việt Nam khoảng 110 tỷ đồng. Sau đó, Kim Bum J xây dựng hệ thống thành viên Khanh Members, có nguồn tiền từ Hàn Quốc để chi trả lãi, thanh lý các hợp đồng, trả các khoản nợ của Công ty R Việt Nam cũng như chi trả lãi, hoa hồng cho thành viên Khanh Members. Theo hướng dẫn của Q, chỉ đạo từ Kim Bum J, Nguyễn Thị H, T đã thực hiện việc chi trả lãi, hoa hồng, lập các báo cáo thu – chi nội bộ hàng tháng, năm để báo cáo giám đốc; Bản thân T biết việc công ty lấy tiền nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng, chi phí hoạt động, một phần chi cho các dự án nhưng cho rằng công ty mới hoạt động, việc chi tiền như trên là đương nhiên, khi có lợi nhuận sẽ bù đắp các khoản chi trước đây. Ngoài phụ trách kế toán, T trực tiếp đầu tư để hưởng lãi suất cao, hợp đồng này đã được thanh lý. Từ tháng 01/2018 đến tháng 01/2019, Nguyễn Thị Kim T hưởng lợi 334.480.280 đồng (trong đó, lương là 318.280.280 đồng, hoa hồng nhân viên, lãi từ hợp đồng đứng tên chồng T là 16.200.000 đồng).

Nguyễn Hoàng D, tham gia từ tháng 12/2016 đến tháng 02/2019, khai: Theo chỉ đạo của Kim Bum J, D giới thiệu cho nhà đầu tư biết Công ty IDS H, Công ty R Việt Nam là văn phòng, công ty con của các công ty tại Hàn Quốc, huy động tài chính để chuyển đi nước ngoài kinh doanh ngoại hối dù biết trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của 02 công ty trên thể hiện không phải văn phòng, công ty con của các công ty tại Hàn Quốc, không có giấy phép đầu tư nước ngoài cũng như kinh doanh ngoại hối. D được phân công quản lý nhóm nhân viên kinh doanh, có nhiệm vụ huy động tài chính cho công ty, được hưởng hoa hồng nhân viên 0,5%-0,7%/tháng từ hợp đồng do D trực tiếp giới thiệu, hoa hồng quản lý 0,1%/tháng từ các hợp đồng do nhân viên thuộc nhóm D quản lý giới thiệu được. Khi Kim Bum J thành lập Khanh Members, D cùng Trần Quốc C được gắn vào nhánh dưới trái, phải của Nguyễn Thị H, D đã xây dựng nhánh riêng của mình, hưởng lãi, hoa hồng và biết công ty sử dụng tiền huy động để chi trả lãi, hoa hồng Khanh Members. Từ tháng 01/2017 đến tháng 02/2019, Nguyễn Hoàng D hưởng lợi 5.132.065.859 đồng (Trong đó, lương là 712.431.460 đồng, hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý, tiền thưởng từ các hợp đồng hợp tác kinh doanh là 4.292.312.059 đồng, lãi, hoa hồng Khanh Members: 147.872.340 đồng, hoa hồng khác: 79.450.000 đồng, tự khắc phục cho nhà đầu tư số tiền 100.000.000 đồng) Trần Quốc C, tham gia từ tháng 8/2017 đến tháng 11/2018 khai: C biết Công ty R Việt Nam chỉ có giấy phép kinh doanh, không đủ để huy động tài chính, kinh doanh ngoại hối nhưng thấy công ty huy động tài chính, vận hành bình thường nên tiếp tục làm việc, không có ý kiến gì. C đã tư vấn, giới thiệu cho người thân đầu tư để nhận được lãi cao và bản thân hưởng hoa hồng nhân viên, nhận hoa hồng quản lý từ các hợp đồng do nhân viên trong nhóm do C quản lý, tìm về cho công ty. Sau khi Kim Bum J thành lập Khanh Members, C đã xây dựng nhánh riêng, hưởng lãi, hoa hồng từ hệ thống, biết công ty sử dụng tiền huy động để chi trả lãi, hoa hồng Khanh Members. Nhận thấy hoạt động công ty không ổn, lãi suất chi trả cho thành viên Khanh Members quá cao, trong khi các dự án đều không tiến triển, không hoạt động, không phát sinh doanh thu, đến tháng 11/2018, C nghỉ việc, không tiếp tục hưởng hoa hồng quản lý, các hợp đồng hợp tác kinh doanh do C giới thiệu đã được thanh lý; Tuy nhiên, C vẫn tiếp tục nhận lãi, hoa hồng từ hệ thống Khanh Members do nhánh dưới của Chánh tạo ra. Từ tháng 9/2017 đến tháng 02/2019, Trần Quốc C hưởng lợi số tiền 1.020.451.369 đồng (trong đó, lương 285.344.754 đồng; hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý, tiền thưởng từ các hợp đồng hợp tác kinh doanh là 544.800.453 đồng; lãi, hoa hồng Khanh Members là 167.606.162 đồng; hoa hồng khác là 22.700.000 đồng).

Nguyễn Đức L, tham gia từ tháng 12/2017 đến tháng 02/2019, khai: Theo yêu cầu của Kim Bum J, L đã tìm người, tiến hành lập trình hệ thống Khanh Members với chức năng quản lý thành viên, trả lãi hàng ngày, hoa hồng giới thiệu trực tiếp, hoa hồng cân cặp, hệ thống bắt đầu vận hành từ tháng 4/2018. Sau đó, L là người trực tiếp quản trị, điều hành hệ thống Khanh Members, trích xuất file mềm yêu cầu rút tiền của thành viên, giao cho bộ phận kế toán để thực hiện việc chi trả lãi, hoa hồng. Quá trình làm việc, L nhận thấy hoạt động của hệ thống Khanh Members không ổn do có các hạn chế: Không giới hạn số lần nhận hoa hồng giới thiệu, hoa hồng cân nhánh, việc duy trì gói Clone (gói nhân bản, không hoàn tiền đầu tư) khiến công ty luôn phải trả lãi cho thành viên và đã báo cáo cho Kim Bum J nhưng được yêu cầu tiếp tục làm theo chỉ đạo, đồng thời L cũng đầu tư vào Khanh Members, được trả lãi, hoa hồng đầy đủ nên tiếp tục làm việc cho đến khi công ty ngừng hoạt động. Từ tháng 01/2018 đến tháng 01/2019, Nguyễn Đức L hưởng lợi 270.598.368 đồng (trong đó, lương là 192.478.588 đồng; lãi, hoa hồng Khanh Members là 78.119.780 đồng).

Lời khai người liên quan:

Trịnh Hồng Duy, Phó Ban quản lý dự án Poker và Tăng Duy Hiếu, Giám đốc kỹ thuật Câu lạc bộ Poker Công ty KH, khai: Giám đốc Kim Bum J biết rõ nguyên tắc hoạt động của Câu lạc bộ Bridge và Poker chỉ được tổ chức thi đấu giải trí, thu tiền phí tham gia của thành viên, trả thưởng bằng hiện vật, không được đổi phỉnh sang tiền mặt nhưng Kim Bum J vẫn yêu cầu tổ chức, huấn luyện nhân viên như kiểu casino với mục đích khi Câu lạc bộ đi vào hoạt động sẽ tổ chức đánh bài tại các phòng VIP.

Huỳnh Thị Hồng Phúc, thông dịch viên từ tháng 4/2016 đến tháng 7/2018 khai: Trong các buổi họp công ty, Kim Bum J cổ động nhân viên tích cực huy động tài chính, mô tả tương lai công ty sẽ trở thành một tập đoàn lớn, kinh doanh tất cả mọi lĩnh vực, tất cả nhân viên sẽ làm giám đốc cho các công ty con, đưa ra các chính sách chi trả hoa hồng, tiền thưởng, khuyến mãi mới để khuyến khích nhân viên tăng doanh số huy động tiền, nhân viên không đạt doanh số thì bị sa thải… các cuộc họp giữa Kim Bum J và Nguyễn Thị H, sau này có Trần Quốc C, Trịnh Hồng Duy đều không cho phiên dịch Huỳnh Thị Hồng Phúc tham gia do bản thân Kim Bum J biết tiếng Việt.

Nguyễn Tường Toàn, thông dịch viên từ tháng 9/2018 đến tháng 02/2019 khai: Toàn thông dịch tiếng Hàn Quốc cho giám đốc Kim Bum J tại các cuộc họp toàn công ty hàng tháng để giám đốc để trao tiền thưởng best saler với số tiền 100 USD/người, động viên nhân viên cố gắng hơn trong việc huy động tài chính; thông dịch cho nhân viên khi báo cáo công việc với giám đốc Kim Bum J; thông dịch số tiền người Hàn Quốc muốn giao dịch với kế toán trưởng với hình thức quẹt thẻ tín dụng.

Phan Lê Như H, nhân viên telesales Công ty R Việt Nam từ tháng 6/2017 đến tháng 5/2018, khai: Hà được phân công gọi điện thoại cho các khách hàng dựa trên cơ sở thông tin dữ liệu cá nhân do công ty mua, mời gọi khách hàng đến Văn phòng Công ty tại Lầu 55, tòa nhà B để được giới thiệu về kinh doanh ngoại hối của Công ty R Việt Nam, đầu tư vào công ty để kiếm lời, theo chỉ đạo của Nguyễn Hoàng D, Phó giám đốc Công ty R Việt Nam.

Trịnh Thế P, Phạm Q H là nhân viên kinh doanh khai: Khi mới vào làm, P, Q được Phó Giám đốc Nguyễn Hoàng D hướng dẫn cách thức tiếp cận, tư vấn để nhà đầu tư tin tưởng, gửi tiền vào công ty. Sau 01 tháng thử việc, Hoàng nghỉ việc; P được D chỉ đạo soạn thảo bài giảng thuyết trình, trình bày chung về công ty về Công ty R Hàn Quốc, lĩnh vực đầu tư của Công ty R Hàn Quốc, lợi nhuận của R Hàn Quốc, sau hội thảo, từng nhân viên kinh doanh sẽ tiếp cận nhà đầu tư để giới thiệu về các gói tiền gửi, lãi suất của công ty.

Phùng Trí Vĩ là người nhận tiền của Công ty IDS H, Công ty R Việt Nam để chuyển đi nước ngoài khai: Vĩ thừa nhận có nhận tiền từ Công ty IDS H, Công ty R Việt Nam để chuyển đi Hàn Quốc cho ông Kim, giám đốc công ty bằng phương pháp tìm người có nhu cầu chuyển tiền từ Hàn Quốc về Việt Nam để đối ứng, thực tế không chuyển tiền đi nước ngoài. Khi ông Kim xác nhận người bên Hàn Quốc đã nhận được tiền, Vĩ xác nhận giao dịch hoàn thành, không biết người nhận tại Hàn Quốc là ai.

Lưu Thị Hồng D là chủ nhiệm Câu lạc bộ Thể thao Bridge và Poker Nam Sài Gòn khai: Khoảng tháng 10/2017, D liên hệ UBND phường Bình Thuận, Quận 7 để xin phép thành lập Câu lạc bộ Thể thao Bridge và Poker. Tháng 01/2018, có người tên D, giới thiệu là đại diện Khanh Group liên hệ, cho biết khả năng tổ chức các giải đấu quốc tế, hứa hẹn tài trợ hoạt động của Câu lạc bộ nên D đồng ý hợp tác, tuy nhiên cho đến nay, Câu lạc bộ Thể thao Bridge và Poker Nam Sài Gòn không hoạt động ngày nào, Khanh Group không hỗ trợ gì, bản thân D không nhận được lợi ích gì từ Khanh Group.

Các bị hại khai: Từ cuối năm 2017, thông qua người thân, bạn bè giới thiệu, các cá nhân này biết được việc huy động tài chính của Công ty R Việt Nam với lãi suất cao hơn lãi suất huy động của ngân hàng đến 3 lần, đến giữa năm 2018 thì có thêm Công ty K A tiến hành huy động tài chính bằng kêu gọi nhà đầu tư mua điểm KFP, trả lãi hàng ngày.

Khi đến văn phòng công ty, nhà đầu tư được nhân viên công ty giới thiệu Công ty R Việt Nam, Công ty K A là công ty con của tập đoàn đa quốc gia có chi nhánh tại Hàn Quốc, Việt Nam, Hồng Kông, Singapore, có giám đốc người Hàn Quốc, có vốn điều lệ lớn, lãi suất huy động cao từ 1,5% đến 1,9%/tháng và cam kết khách hàng không phải chịu bất kỳ rủi ro nào, đảm bảo tiền gốc cũng như được trả lãi đầy đủ hàng tháng, công ty huy động tài chính để kinh doanh ngoại hối tại nước ngoài với lợi nhuận đến 5%/tháng. Đồng thời, công ty đang tiến hành đầu tư các dự án tại Việt Nam, ban đầu được giới thiệu dự án Câu lạc bộ Poker tại Quận 7 hoạt động như casino sinh lợi cao, sau đó là dự án du thuyền Khanh Cruse, spa và một số dự án khác. Tin tưởng là thật nên các nhà đầu tư đã đầu tư vào Công ty R Việt Nam và K A.

Các nhà đầu tư khi ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh không được gặp mặt trực tiếp giám đốc Kim Bum J, nhân viên công ty đưa hợp đồng cho nhà đầu tư ký, sau đó nhân viên trình lại giám đốc ký, đóng dấu công ty và đưa lại hợp đồng cho nhà đầu tư. Đối với việc nộp tiền, nhà đầu tư có thể nộp trực tiếp bằng tiền mặt cho nhân viên, được nhận phiếu thu có chữ ký giám đốc Kim Bum J hoặc chuyển khoản, sau khi nhận được tiền công ty sẽ làm giấy xác nhận đã nhận được tiền. Hàng tháng, tiền lãi được công ty chuyển thẳng vào tài khoản của nhà đầu tư. Thời gian đầu, Công ty R Việt Nam, Công ty K A trả lãi, hoa hồng đầy đủ cho nhà đầu tư, đến cuối tháng 02/2019, công ty ngừng trả lãi, ngừng hoạt động, không còn tiền để thanh lý hợp đồng cho các nhà đầu tư, do đó, các nhà đầu tư nộp đơn tố cáo.

Quá trình điều tra và giai đoạn chuẩn bị xét xử: Ninh Thị Thanh T1 đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 2.000.000.000 đồng; Nguyễn Thị Hồng Q nộp 295.341.000 đồng; Trần Quốc C nộp 500.000.000 đồng; Nguyễn Đức L nộp 135.000.000 đồng; Nguyễn Thị Kim T nộp 16.200.000 đồng; gia đình Nguyễn Thị H nộp 20.000.000 đồng. Ngoài ra, Nguyễn Hoàng D đã tự nguyện khắc phục hậu quả trả cho ông Nguyễn Văn Nam 100.000.000 đồng và trả cho bà Nguyễn Thị Anh Th1 240.000.000 đồng; người thân của bị cáo Kim Bum J đã tự nguyện khắc phục hậu quả trả cho ông Cao Đức Huy 15.000.000 đồng và bà Chu Thị Lan Anh 5.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 246/2023/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:

I. Về tội danh và hình phạt:

1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 39; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Kim Bum J tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2020.

2. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2020.

3. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng D 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

4. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

5. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim T 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

6. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Quốc C 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

7. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ninh Thị Thanh T1 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

8. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng Q 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

II. Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, buộc bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Trần Quốc C, Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Đức L phải trả lại cho các bị hại các khoản tiền đã chiếm đoạt. Cụ thể: bị cáo Nguyễn Thị H phải trả lại 2.074.053.004 đồng; bị cáo Ninh Thị Thanh T1 phải trả lại 570.722.598 đồng; bị cáo Nguyễn Thị Kim T phải trả lại 318.280.280 đồng; bị cáo Trần Quốc C phải trả lại 520.451.369 đồng; bị cáo Nguyễn Hoàng D phải trả lại 4.792.065.859 đồng; bị cáo Nguyễn Đức L phải trả lại 135.598.369 đồng; bị cáo Kim Bum J phải trả lại là 65.130.753.178 đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định số tiền trả lại cho các bị hại, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Kháng cáo của các bị cáo: Ngày 30/5/2023, bị cáo Kim Bum J kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 30/5/2023, bị cáo Nguyễn Thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 09/6/2023, bị cáo Nguyễn Hoàng D kháng cáo đề nghị xem xét lại hành vi giúp sức cho bị cáo Kim Bum J trong việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản và việc buộc trả lại số tiền 4.792.965.859 đồng. Ngày 06/6/2023, bị cáo Trần Quốc C đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại do bản án sơ thẩm xét xử không khách quan, chưa xem xét đầy đủ các chứng cứ trong vụ án. Ngày 02/6/2023, bị cáo Ninh Thị Thanh T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 07/6/2023, bị cáo Nguyễn Thị Kim T kháng cáo kêu oan, bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 02/6/2023, bị cáo Nguyễn Thị Hồng Q kháng cáo xin hưởng án treo. Ngày 02/6/2023, bị cáo Nguyễn Đức L kháng cáo xin miễn hình phạt tù.

Kháng cáo của các bị hại: Ngày 12/6/2023, ông Nguyễn Minh T kháng cáo đề nghị tăng hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Thị H và xem xét lại việc buộc bị cáo H trả lại số tiền 2.070.000 đồng là chưa phù hợp với số tiền mà bị cáo đã giao dịch là 81.891.463.000 đồng; Đề nghị xem xét hành vi phạm tội của Nguyễn Thị Như Q; Đề nghị đưa số tiền mà bị cáo Nguyễn Hoàng D đã khắc phục của một số bị hại vào số tiền chung để khắc phục cho tất cả bị hại trong vụ án. Ngày 7/6/2023, bà Nguyễn Thị Kim A kháng cáo đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng Q. Ngày 7/6/2023, bà Huỳnh Thị Ngọc H kháng cáo đề nghị xem xét trách nhiệm hình sự của Nguyễn Thị Như Q và buộc bà Q phải có trách nhiệm liên đới bồi thường.

Kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ngày 12/6/2023, ông Thạch Văn Th kháng cáo đề nghị xem xét số tiền thiệt hại của ông và yêu cầu Công ty R Việt Nam trả cho Ông và 13 bị hại số tiền đã góp vốn chung. Ngày 14/6/2023, ông Nguyễn Hữu B kháng cáo đề nghị Công ty R Việt Nam trả cho Ông số tiền 3.498.000.000 đồng. Ngày 31/5/2023, bà Nguyễn Thị Anh Th1 kháng cáo đề nghị không chấp nhận bản án sơ thẩm phần liên quan đến trách nhiệm của Bà. Ngày 07/6/2023, Công ty D kháng cáo đề nghị không buộc trả lại số tiền 4.935.994.999 đồng. Ngày 21/6/2023, Công ty Nội thất S kháng cáo đề nghị không buộc trả lại số tiền 466.049.650 đồng. Ngày 31/6/2023, Công ty K C kháng cáo đề nghị không buộc trả lại các khoản tiền. Ngày 26/6/2023, Công ty A Việt Nam kháng cáo đề nghị loại trừ trách nhiệm của Công ty. Ngày 23/6/2023, Công ty Kiến trúc OC kháng cáo đề nghị không buộc trả lại số tiền 802.750.000 đồng. Ngày 07/6/2023, Công ty NP kháng cáo đề nghị không buộc trả lại số tiền 142.834.833 đồng. Ngày 22/6/2023, Công ty Viễn thông AC kháng cáo đề nghị không buộc trả lại số tiền 167.272.230 đồng. Ngày 21/6/2023, Công ty TVC kháng cáo đề nghị không buộc trả lại số tiền 466.477.000 đồng. Ngày 21/6/2023, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD kháng cáo đề nghị không buộc trả lại số tiền 387.200.000 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên kháng cáo.

Bị cáo Kim Bum J trình bày: Bị cáo bị xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng. Tuy nhiên, hình phạt quá nghiêm khắc nên chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Bị cáo có bệnh cao huyết áp, bệnh thận, hiện tại mẹ bị cáo già yếu thường xuyên ốm đau. Bị cáo xác định đã thành lập các công ty và thực hiện các hành vi như bản án sơ thẩm nêu nhưng là theo chỉ đạo của cá nhân người Hàn Quốc. Tại các cuộc họp của Công ty thì bị cáo đều mời kế toán và các bộ phận khác tham dự để phổ biến việc đầu tư nên mọi người đều biết chủ trương kinh doanh của Công ty.

Bị cáo Nguyễn Thị H trình bày: Rút lại đơn xin rút kháng cáo ngày 07/07/2023 và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Cha đã mất sức lao động, mẹ già yếu, bị cáo đã thành khẩn khai báo và giúp cơ quan điều tra nhanh chóng kết thúc vụ án.

Bị cáo Nguyễn Hoàng D trình bày: Bị cáo không biết, không được bàn bạc để lừa đảo nhà đầu tư. Bị cáo chỉ hướng dẫn theo nội dung được chuyên gia Hàn Quốc giới thiệu. Nên bị cáo không đồng phạm với Kim Bum J. Gia đình bị cáo có truyền thống nhà giáo, bản thân cũng từng là giáo viên. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về hành vi như bản án sơ thẩm đã nêu.

Bị cáo Nguyễn Thị Kim T trình bày: Bị cáo kháng cáo kêu oan. Việc quy kết đồng phạm với Kim Bum J là không đúng do bị cáo không biết mục đích lừa đảo của Kim Bum J. Bị cáo chỉ làm thủ tục thanh toán tiền từ các nguồn tiền đầu tư từ Hàn Quốc, thu từ kinh doanh và thu của nhà đầu tư trong nước mà không tách riêng từng nguồn tiền này khi thanh toán. Bị cáo không biết việc lấy tiền của người trước trả cho người sau. Sau khi phát hiện vi phạm của Kim Bum J thì bị cáo chủ động thuê kho để quản lý tài liệu và cung cấp để cơ quan công an điều tra vụ án.

Bị cáo Nguyễn Thị Hồng Q trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ đã già yếu. Bản thân bị cáo chỉ là người làm công ăn lương, không biết việc làm là sai phạm do nhận thức hạn chế. Bị cáo không biết việc việc lấy tiền của người trước trả cho người sau do không được bàn bạc. Khi bị phát hiện, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và giúp cơ quan điều tra nhanh chóng kết thúc vụ án. Bị hại trong vụ án có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Trần Quốc C trình bày: Đề nghị giảm nhẹ hình phạt, lý do: Bị cáo không biết việc lấy tiền của người trước trả cho người sau; Cha bị cáo mất sức lao động. Bản thân bị cáo đã hợp tác với cơ quan điều tra để nhanh chóng kết thúc vụ án.

Bị cáo Nguyễn Đức L trình bày: Bị cáo chỉ là nhân viên IT trong hệ thống Khanh Member. Phần mềm Khanh Member, ngoài bị cáo thì kế toán vẫn xem được thông tin về khách hàng. Bị cáo không biết việc lấy tiền của người trước trả cho người sau. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Bản thân bị cáo chỉ là người làm công ăn lương, bị cáo chỉ thuê người viết phần mềm quản lý, không biết việc lừa đảo của Kim Bum J. Ngoài ra, hiện nay bị cáo đang nuôi con nhỏ, cha mẹ đã già yếu. Khi bị phát hiện, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Các bị hại trình bày: Đề nghị chấp nhận kháng cáo của các bị hại.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất trình bày: Đề nghị chấp nhận kháng cáo không buộc trả lại số tiền đã nhận do việc ký hợp đồng là ngay tình, hợp pháp. Các công ty không biết việc Kim Bum J lừa đảo và dùng số tiền này để thanh toán cho các công ty.

Công ty D đề nghị trả lại tiền tạm ứng dư là 1,5 tỷ đồng. Công ty K C cho rằng tại phiên tòa Kim Bum J xác nhận nguồn tiền từ Hàn Quốc có mục đích để thuê trụ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của công ty.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến:

Tòa án cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Thị Hồng Q, Trần Quốc C phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền 77.622.361.557 đồng là không chính xác do các bị cáo này chỉ có thời gian làm việc từ 10, 12 hoặc 20 tháng cho Công ty. Các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không xem xét trách nhiệm của nhân viên kinh doanh (sale), trong đó có Nguyễn Thị Như Q là bỏ lọt số tiền phạm tội và bỏ lọt tội phạm. Mặc dù, Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ vụ án để làm rõ tổng số tiền chiếm đoạt và không được Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận nhưng trong vụ án này phải xác định được số tiền các bị cáo chiếm đoạt, sau đó khi lượng hình thì Tòa án mới xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

Những vấn đề nêu trên không thể khắc phục được tại phiên tòa phúc thẩm. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, bị hại, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Ninh Thị Thanh T1 thống nhất trình bày:

Thống nhất ý kiến của Viện kiểm sát về việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại. Trong vụ án này, các bị cáo có thời gian làm việc khác nhau nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc phải chịu trách nhiệm cùng với Kim Bum J đối với số tiền 77 tỷ là không chính xác. Có 7 nhân viên sale nhận tiền hoa hồng từ nguồn đầu tư của bị hại nhưng không được xem xét để trả lại cho bị hại là không đúng. Trong số 1.840 hợp đồng ký với Công ty nhưng chỉ có 4 người phải trả lại tiền lãi đã nhận, số còn lại cấp sơ thẩm không xem xét là không khách quan. Trong số người liên quan là các Công ty có ký hợp đồng nhưng chỉ có 13 công ty phải trả lại số tiền đã nhận, còn lại các công ty khác không hợp tác thì không phải trả lại cũng không công bằng.

Bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho các bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Hoàng D, thống nhất trình bày:

Đối với bị cáo T: Không có căn cứ xác định bị cáo T biết việc lấy tiền của người sau trả cho người trước. Bị cáo hoàn toàn không bàn bạc với Kim Bum J để thực hiện hành vi lừa đảo khách hàng. Khi nhận bàn giao công việc kế toán từ Q thì bị cáo không biết việc công ty có vấn đề về thu chi, không biết được việc kế toán đã lấy tiền của người sau trả cho người trước. Trước khi bàn giao công việc thì Q có nói với T là sắp có tiền từ Hàn Quốc chuyển về. Thời điểm bị cáo làm kế toán thì mới có nguồn tiền 233 tỷ đồng từ Hàn Quốc chuyển về Công ty nên bị cáo chỉ làm thủ tục chi và trình Kim Bum J phê duyệt mà không biết tiền đó là từ Hàn Quốc, tiền đầu tư tại Việt Nam hay kinh doanh mang lại. Sau khi phát hiện việc gian dối thì bị cáo đã tự bỏ tiền thuê kho chứa tài liệu và hỗ trợ Cơ quan điều tra giải quyết vụ án. Như vậy, bị cáo T không đồng phạm với Kim Bum J để thực hiện hành vi lừa đảo khách hàng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội và trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Đối với bị cáo D: Thống nhất việc hủy bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện Kiểm sát. Bị cáo D không có hành vi đồng phạm với Kim Bum J trong việc lừa đảo khách hàng.

Bị cáo T và bị cáo D thống nhất nội dung trình bày của luật sư.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Quốc C trình bày: Công ty R Việt Nam có 3 nguồn thu là tiền đầu tư từ Hàn Quốc, thu từ nhà đầu tư trong nước và thu từ hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm chỉ xác định một nguồn thu từ nhà đầu tư trong nước là không chính xác nên cần xác định cụ thể các nguồn thu này là bao nhiêu?. Có một số nhân viên sale có hưởng hoa hồng từ nguồn tiền đầu tư của bị hại nhưng chưa được thu hồi. Vì vậy, Viện Kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm là có căn cứ.

Bị cáo C thống nhất nội dung trình bày của luật sư.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng Q trình bày: Thống nhất ý kiến của Viện Kiểm sát, hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Trong vụ án này, bị cáo Q đã chủ động nghỉ việc, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra để nhanh chóng kết thúc vụ án.

Bị cáo Q thống nhất nội dung trình bày của luật sư. Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức L trình bày:

Thống nhất ý kiến của Viện Kiểm sát, hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Bị cáo L làm việc tại Công ty R Việt Nam, Công ty này khác Công ty K A nên việc buộc bị cáo về hành vi đối với 2 công ty trên là không đúng. Phần mềm quản lý K A chỉ đơn thuần quản lý người đầu tư, các bộ phận khác như kế toán cũng vào được phần mềm này nên việc quy kết bị cáo đồng phạm cùng Kim Bum J trong việc lừa đảo khách hàng là không đúng. Hồ sơ vụ án không có căn cứ xác định bị cáo có bàn bạc với Kim Bum J.

Bị cáo L thống nhất nội dung trình bày của luật sư.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Anh Th1 trình bày: Thống nhất ý kiến với các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác về việc không tuyên buộc trả lại tiền, vì khó có thể thực hiện triệt để; trách nhiệm bồi thường thuộc về bị cáo, lấy tài sản của mình trả cho người bị hại. Về bản chất là người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều bị lừa dối như nhau.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty K C trình bày:

Đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty K C do việc ký hợp đồng giữa các pháp nhân là hợp pháp, ngay tình, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Kim Bum J cũng xác nhận số tiền thuê mặt bằng Paragon bằng nguồn tiền từ Hàn Quốc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ trong vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo đúng quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự là đúng pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Trần Quốc C, Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Thị Hồng Q, Nguyễn Đức L, bị hại và người bào chữa cho các bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3] Ngày 07/7/2023, bị cáo Nguyễn Thị H có đơn rút kháng cáo. Tuy nhiên tại phiên tòa, bị cáo H trình bày giữ nguyên kháng cáo nên Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án đối với kháng cáo của bị cáo H theo quy định chung.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, có một số bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo, một số người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nhưng đã ủy quyền hợp pháp cho người khác hoặc được Tòa án triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hay do trở ngại khách. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ.

[5] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo: Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Hồng Q, Nguyễn Đức L xác định đã thực hiện toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm và chỉ đề nghị giảm hình phạt, xin hưởng án treo hoặc đề nghị miễn hình phạt tù; Các bị cáo: Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Thị Kim T đề nghị xem xét lại hành vi giúp sức cho bị cáo Kim Bum J, các bị cáo không phạm tội; Bị cáo Trần Quốc C đề nghị hủy bản án sơ thẩm.

[6] Căn cứ các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định:

[6.1] Trong thời gian từ tháng 4/2015 đến tháng 10/2018, Kim Bum J đã thành lập 10 công ty với tên gọi khác nhau, sau đó lôi kéo các bị cáo khác cùng tham gia kêu gọi đầu tư, huy động tài chính (tiền) trái pháp luật tại 04 công ty gồm: Công ty TNHH Đầu tư IDS C, Công ty Cổ phần Đầu tư IDS H, Công ty TNHH R Việt Nam, Công ty TNHH K A. Quá trình huy động tiền, các bị cáo đưa ra các thông tin không có thật như: Đây là các công ty con của tập đoàn đa quốc gia có chi nhánh tại Hàn Quốc, Việt Nam, Hồng Kông, Singapore có vốn điều lệ lớn, lãi suất huy động cao… mục đích huy động tiền để kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, kinh doanh Poker…. Đồng thời, các bị cáo còn đưa ra chính sách trả lãi suất cao, cam kết trả lãi đầy đủ hàng tháng… để các nhà đầu tư tin là thật và đầu tư vào các Công ty do Kim Bum J thành lập. Tuy nhiên, thực tế các Công ty này không chuyển tiền sang Hàn Quốc đầu tư, không tiến hành các hoạt động kinh doanh như giới thiệu, quảng cáo mà sử dụng nguồn tiền huy động của nhà đầu tư sau để chi trả lãi, hoa hồng cho người tham gia trước, chi phí cho các hoạt động của các công ty, duy trì hệ thống và chiếm đoạt, sử dụng cho cá nhân. Tổng số tiền các bị cáo đã chiếm đoạt của 156 bị hại là 77.622.361.557 đồng.

[6.2] Hành vi của các bị cáo, cụ thể như sau:

[6.2.1] Kim Bum J là giám đốc, người điều hành mọi hoạt động Công ty IDS C; Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Giám đốc Công ty IDS H; Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật Công ty R Việt Nam (kể từ lần thay đổi thứ 1); Người đại diện theo pháp luật Công ty K A (kể từ lần thay đổi thứ 1); Giám đốc, người đại diện theo pháp luật các Công ty KH, Công ty K. Kim Bum J đã trực tiếp tổ chức xây dựng hệ thống huy động tài chính bằng hình thức ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trả lãi cố định hàng tháng trái pháp luật; tạo lập trang website www.khanhmembers.com để tiến hành thu tiền, trả lãi suất, hoa hồng theo mô hình đa cấp trái pháp luật, hứa hẹn với nhà đầu tư sử dụng nguồn tiền huy động để chuyển tiền đầu tư tại nước ngoài, tổ chức các lớp dạy forex, kinh doanh quán café, Câu lạc bộ Poker, kinh doanh karaoke, du thuyền nhưng thực tế không đăng ký hoạt động hoặc thực hiện một cách hình thức để tạo niềm tin cho nhà đầu tư, lấy lợi nhuận chi trả lãi nhưng bản chất là lấy tiền của nhà đầu tư sau chi trả cho nhà đầu tư trước. Với cách thức và thủ đoạn trên Kim Bum J đã chiếm đoạt của 156 người với tổng số tiền 77.622.361.557 đồng.

Quá trình điều tra, Kim Bum J xác nhận số liệu trên hệ thống sổ sách do cơ quan điều tra đã thu giữ là đúng. Các tài liệu trên thể hiện: Từ tháng 10/2015 đến tháng 02/2019, Kim Bum J được hưởng lợi 40.736.579.453 đồng, gồm tiền lương, hoa hồng giám đốc, nhận lãi, hoa hồng từ các hợp đồng hợp tác kinh doanh đứng tên Kim Bum J.

[6.2.2] Nguyễn Thị H là người quản lý, hỗ trợ cho Kim Bum J điều hành hoạt động Công ty IDS C; Là chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật các Công ty R Việt Nam, Công ty K A kể từ khi thành lập; Chủ sở hữu, đại diện theo pháp luật của các Công ty P, Công ty R G, Công ty K R; Chủ sở hữu Công ty KH. Trong khoảng thời gian từ 12/2015 đến tháng 01/2019, H với vai trò quản lý đương nhiên phải biết rõ các công ty huy động vốn không đúng mục đích, sử dụng tiền của nhà đầu tư sau chi trả nhà đầu tư trước nhưng vẫn giúp sức cho Kim Bum J thành lập, quản lý, điều hành hoạt động của các công ty nêu trên. Quá trình điều tra đã xác định H là người ký xác nhận đủ điều kiện trước khi chuyển cho Kim Bum J ký chi tiền theo đề xuất của kế toán. Hành vi của H đã giúp sức cho Kim Bum J chiếm đoạt 77.622.361.557 đồng của 156 người. Trong đó, H được hưởng lợi 2.094.053.004 đồng.

[6.2.3] Nguyễn Hoàng D, với vai trò phó giám đốc kinh doanh, D biết Công ty IDS H, Công ty R Việt Nam không phải công ty con của các công ty tại Hàn Quốc. Các công ty này không được phép và thực tế không kinh doanh ngoại hối nhưng theo chỉ đạo của Kim Bum J, D vẫn giới thiệu cho nhà đầu tư biết Công ty IDS H, Công ty R Việt Nam là văn phòng, công ty con của các công ty tại Hàn Quốc, huy động tài chính để chuyển đi nước ngoài kinh doanh ngoại hối. D được phân công quản lý nhóm nhân viên kinh doanh, có nhiệm vụ huy động tài chính cho công ty, được hưởng hoa hồng nhân viên 0,5%-0,7%/tháng từ hợp đồng do D trực tiếp giới thiệu; hoa hồng quản lý 0,1%/tháng từ các hợp đồng do nhân viên thuộc nhóm D quản lý giới thiệu được. Khi Kim Bum J thành lập hệ thống Khanh Members, D cùng Trần Quốc C được gắn vào nhánh dưới trái, phải của Nguyễn Thị H, D đã xây dựng nhánh riêng của mình, hưởng lãi, hoa hồng và biết công ty sử dụng tiền huy động để chi trả lãi, hoa hồng Khanh Members. Hành vi của D đã giúp sức cho Kim Bum J chiếm đoạt 77.622.361.557 đồng của 156 người. Trong đó, D được hưởng lợi 5.132.065.859 đồng.

[6.2.4] Trần Quốc C làm việc tại Công ty R Việt Nam từ tháng 8/2017 đến tháng 11/2018, với vai trò Trưởng phòng kinh doanh, C biết Công ty R Việt Nam không được phép huy động tài chính, không được kinh doanh ngoại hối nhưng vẫn giới thiệu cho nhà đầu tư nhằm hưởng hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý từ các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Bị cáo C biết hệ thống Khanh Members dùng tiền của nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng nhưng vẫn phát triển, mở rộng nhánh dưới để hưởng lãi, hoa hồng. Hành vi của C đã giúp sức cho Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư. Trong đó, C được hưởng lợi 1.020.451.369 đồng.

[6.2.5] Ninh Thị Thanh T1 là nhân viên kế toán, sau đó được bổ nhiệm kế toán trưởng từ tháng 11/2015 đến tháng 7/2017. Theo chỉ đạo của Kim Bum J, khoảng tháng 02, 03/2016, Ninh Thị Thanh T1 đã tìm hiểu và được tư vấn về các hình thức được phép huy động tài chính hợp pháp, nhận tiền gửi bao gồm ngân hàng, công ty tài chính, công ty quản lý quỹ nhưng điều kiện thành lập phức tạp, vốn pháp định lớn, chịu sự quản lý, giám sát của Ngân hàng nhà nước, Ủy ban chứng khoán nhà nước, không thể chuyển tiền ra nước ngoài và gửi email báo cáo cho Kim Bum J, Nguyễn Thị H biết. Khi Kim Bum J tiếp tục thành lập các công ty cổ phần, công ty TNHH để tiến hành huy động tài chính thì hàng tháng, T vẫn gửi email các báo cáo hợp đồng, báo cáo tình hình thu, chi cho Kim Bum J, Nguyễn Thị H, nội dung thể hiện công ty sử dụng tiền của nhà đầu tư để trả các chi phí phát sinh. Ninh Thị Thanh T1 biết các Công ty IDS C, IDS H, R Việt Nam không có vốn chủ sở hữu; Công ty IDS C, IDS H không hoạt động kinh doanh, công ty R Việt Nam tuy có mở quán café, lớp dạy forex nhưng luôn lỗ, các công ty hoạt động bằng nguồn tiền huy động được từ các nhà đầu tư nhưng được Kim Bum J trấn an về nguồn tiền từ nước ngoài chuyển về nên tiếp tục làm việc. Ngoài vai trò kế toán trưởng, T1 còn trực tiếp đầu tư để hưởng lãi suất cao, tìm kiếm nhà đầu tư để hưởng hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý giúp sức. Hành vi của T1 đã giúp sức cho Kim Bum J chiếm đoạt tiền của bị hại, trong đó, T1 được hưởng lợi 2.570.722.598 đồng.

[6.2.6] Nguyễn Thị Kim T, là nhân viên từ tháng 12/2017 đến tháng 02/2018, sau khi Nguyễn Thị Hồng Q nghỉ việc thì T được bổ nhiệm làm kế toán trưởng và biết các tài khoản công ty còn khoảng 10.000.000.000 đồng trong khi tổng số tiền huy động của nhà đầu tư IDS H, R Việt Nam khoảng 110.000.000.000 đồng. Sau đó, Kim Bum J xây dựng hệ thống Khanh Members, có nguồn tiền từ Hàn Quốc do Kim Bum J nộp vào Công ty để trả lãi, thanh lý các hợp đồng, trả các khoản nợ của R Việt Nam cũng như chi trả lãi, hoa hồng cho thành viên Khanh Members. Theo hướng dẫn của Q, chỉ đạo từ Kim Bum J, Nguyễn Thị H, T đã thực hiện việc trả lãi, hoa hồng, lập các báo cáo thu, chi nội bộ hàng tháng, năm để báo cáo giám đốc.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Kim T khai nhận: Có thấy hoạt động của Công ty mất cân đối thu chi. Có một dòng tiền từ nước ngoài gửi về Việt Nam dưới hình thức tiền mặt được Kim Bum J đưa vào Công ty, được T hạch toán vào sổ sách kế toán là tiền hợp tác kinh doanh của Kim Bum J, đây cũng là một phần doanh thu.

Hồ sơ vụ án và khai nhận của Nguyễn Thị Kim T có cơ sở xác định số tiền 233 tỷ đồng do Kim Bum J nộp vào Công ty chính là số tiền hợp tác kinh doanh của Kim Bum J và thực tế Kim Bum J có nhận khoản lãi từ hoạt động đầu tư này.

Số tiền 233 tỷ nêu trên không phải là tiền đầu tư hợp pháp giữa Công ty với các tổ chức, cá nhân Hàn Quốc. Như vậy, có căn cứ xác định T biết việc công ty lấy tiền nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng, chi phí hoạt động, một phần chi cho các dự án không được cơ quan có thẩm quyền cho phép hoạt động, triển khai. Ngoài phụ trách kế toán, T đã trực tiếp đầu tư để hưởng lãi suất cao, hợp đồng này đã được thanh lý. Hành vi của T đã giúp sức cho Kim Bum J chiếm đoạt tiền của bị hại, trong đó, T được hưởng lợi 334.480.280 đồng.

[6.2.7] Nguyễn Thị Hồng Q là nhân viên phụ trách kế toán từ tháng 4/2017 đến tháng 02/2018. Mặc dù, sau thời gian phụ trách kế toán, Q nhận thấy Công ty R Việt Nam mở quán café, lớp dạy forex tại Quận 2 nhưng luôn phải bù lỗ, chuyển tiền đi nước ngoài không thu được lợi nhuận, không nhận lại tiền gốc, Công ty không có hoạt động kinh doanh khác; nguồn tiền trả lãi, hoa hồng, chi phí duy trì hoạt động lấy từ tiền huy động của nhà đầu tư, phát sinh số tiền nợ rất lớn nên các ngày 17, 18/8/2017, Q gửi email kèm file báo cáo thu chi nội bộ cho Nguyễn Thị H, thông báo công ty nợ 71.258.527.729 đồng, đề nghị tiết kiệm, đẩy mạnh huy động vốn để không bị thiếu hụt khi khách hàng muốn rút tiền, đề nghị H trao đổi cùng Kim Bum J để giải quyết tình hình. Đồng thời, Q nhiều lần trực tiếp báo cáo tình hình tài chính cho Kim Bum J, đề nghị Kim Bum J trích một phần hoa hồng giám đốc để đầu tư lại vào công ty, được Kim Bum J trấn an công ty sẽ hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận nên tiếp tục làm việc. Đến tháng 02/2018, tình hình hoạt động công ty không thay đổi, do lo lắng nên Q nghỉ việc. Ngoài phụ trách kế toán, Q trực tiếp đầu tư để hưởng lãi suất cao, tư vấn, giới thiệu nhà đầu tư để hưởng hoa hồng nhân viên, nhận tiền lãi từ Khanh Members, các hợp đồng do Q giới thiệu, trực tiếp đầu tư đã được thanh lý. Hành vi của Q đã giúp sức cho Kim Bum J chiếm đoạt tiền của bị hại, trong đó, Q được hưởng lợi 295.340.937 đồng.

[6.2.8] Nguyễn Đức L là Trưởng phòng công nghệ thông tin, L biết rõ hệ thống Khanh Members chỉ có chức năng quản lý, trả lãi, hoa hồng cho thành viên nhưng vẫn tham gia xây dựng, vận hành, quản lý hệ thống, trực tiếp đầu tư hưởng lãi, hoa hồng. Khi có yêu cầu rút tiền của người đầu tư thì L trích file dữ liệu và chuyển cho kế toán để lập thủ tục chi tiền. Hành vi của L là một khâu trong chuỗi hành vi tạo điều kiện cho Kim Bum J chiếm đoạt tiền của bị hại, trong đó, L được hưởng lợi 270.598.368 đồng.

[7] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Kim Bum J xác định kế toán và các bộ phận đều được thông báo việc đầu tư của Công ty tại các cuộc họp nên mọi người đều biết chủ trương kinh doanh của Công ty. Các bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim T trình bày có nguồn tiền đầu tư từ Hàn Quốc chuyển vào công ty do Kim Bum J là người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án không thể hiện việc đầu tư tài chính hợp pháp của tổ chức, cá nhân Hàn Quốc theo hợp đồng với Công ty tại Việt Nam, hệ thống sổ sách kế toán của Công ty cũng không thể hiện việc chuyển tiền từ các hợp đồng trên. Theo lời khai của Nguyễn Thị H thì Kim Bum J có nhờ H bán giúp hơn 5 triệu Bitcoin sau đó chuyển hơn 100 tỷ đồng cho T để làm thủ tục nộp vào Công ty. Nguyễn Thị Kim T khai nhận: Có một dòng tiền từ nước ngoài gửi về Việt Nam dưới hình thức tiền mặt được Kim Bum J đưa về một khoản tiền từ hoạt động đầu tư, mua bán Bitcoin. Như vậy, số tiền do Kim Bum J chuyển vào Công ty là tiền hợp tác kinh doanh của của Kim Bum J như những bị hại khác trong vụ án.

[8] Quá trình điều tra đã xác định thực tế Công ty R Việt Nam có tổ chức hoạt động kinh doanh như mở quán café, mở lớp dạy forex tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng luôn phải bù lỗ. Số tiền do Kim Bum J chuyển được kế toán nhập vào công ty chỉ là tiền hợp tác kinh doanh của cá nhân Kim Bum J không phải là vốn chủ sở hữu. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định nguồn tiền chi hoa hồng, lãi đều có nguồn gốc từ việc lấy tiền của nhà đầu tư sau chi trả cho nhà đầu tư trước là có căn cứ. Việc cho rằng ngoài nguồn tiền trên còn có 2 nguồn khác là đầu tư từ Hàn Quốc và thu từ hoạt động kinh doanh là không có căn cứ.

[9] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Trần Quốc C, Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Hồng Q, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Đức L đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

[10] Xét kháng cáo của các bị cáo, thấy rằng:

[10.1] Trong vụ án này, bị cáo Kim Bum J giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu, là người điều hành mọi hoạt động của các công ty, đưa ra các phương thức, thủ đoạn, trực tiếp phân công các công việc cho các bị cáo khác thực hiện, quyết định việc thu, chi, chi trả các khoản tiền, số tiền chiếm đoạt rất lớn, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo tù chung thân là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bị cáo Kim Bum J xin giảm nhẹ hình phạt nhưng ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng thì tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới chưa được áp dụng. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo Kim Bum J không được chấp nhận.

[10.2] Bị cáo Nguyễn Thị H là người đại diện theo pháp luật tại nhiều công ty của Kim Bum J, trực tiếp quản lý, hỗ trợ Kim Bum J điều hành các hoạt động của các công ty. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực nhất. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 18 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bị cáo H xin giảm nhẹ hình phạt nhưng ngoài các trình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng thì tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới chưa được áp dụng. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo H không được chấp nhận.

[10.3] Bị cáo Nguyễn Hoàng D là phó giám đốc Công ty R Việt Nam. Mặc dù biết Công ty IDS H, R Việt Nam không phải công ty con của các công ty tại Hàn Quốc, trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của 02 công ty này cũng không thể hiện các nội dung được phép kinh doanh ngoại hối nhưng bị cáo vẫn giới thiệu cho nhà đầu tư biết Công ty IDS H, Công ty R Việt Nam là văn phòng, công ty con của các công ty tại Hàn Quốc, huy động tài chính để chuyển đi nước ngoài kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, D đã xây dựng nhánh riêng của mình, hưởng lãi, hoa hồng sau khi Kim Bum J thành lập Khanh Members. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực cho bị cáo Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 17 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới chưa được áp dụng. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo D không được chấp nhận.

[10.4] Ninh Thị Thanh T1 là kế toán trưởng Công ty Đầu tư IDS C và Công ty IDS H. Mặc dù, T đã biết các hình thức được phép huy động tài chính, nhận tiền gửi và không thể chuyển tiền ra nước ngoài nên đã gửi email báo cáo cho Kim Bum J, Nguyễn Thị H biết. Tuy nhiên, khi Kim Bum J tiếp tục thành lập các công ty để tiến hành huy động tài chính thì hàng tháng, T vẫn gửi email các báo cáo hợp đồng, báo cáo tình hình thu, chi việc sử dụng tiền của nhà đầu tư cho Kim Bum J, Nguyễn Thị H biết. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 8 năm tù là phù hợp.

Giai đoạn phúc thẩm, bị cáo cung cấp chứng cứ đã nộp số tiền 570.722.598 đồng (Theo Biên lai thu số 000423 ngày 13/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh). Như vậy, bị cáo đã khắc phục toàn bộ số tiền hưởng lợi trái pháp luật nên được xem là tình tiết mới sau khi xét xử sơ thẩm. Vì vậy, cần xem xét về hình phạt đối với bị cáo.

[10.5] Nguyễn Thị Kim T là kế toán trưởng Công ty R Việt Nam và Công ty K A. T biết các tài khoản công ty còn khoảng 10.000.000.000 đồng trong khi tổng số tiền huy động của nhà đầu tư IDS H, R Việt Nam khoảng 110.000.000.000 đồng. Bị cáo đã thực hiện việc trả lãi, hoa hồng, lập các báo cáo thu, chi nội bộ hàng tháng, năm để báo cáo giám đốc. Quá trình nhiệm vụ kế toán, bị cáo biết việc công ty lấy tiền nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng, chi phí hoạt động, một phần chi cho các dự án. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 9 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Tại phiên tòa, bị cáo cung cấp chứng cứ đã nộp số tiền 200.000.000 đồng (Theo Biên lai thu số 0000872 ngày 17/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh). Mặc dù, bị cáo T vẫn kháng cáo kêu oan nhưng việc nộp số tiền 200.000.000 đồng vẫn được coi là tình tiết mới sau khi xét xử sơ thẩm. Vì vậy, cần xem xét về hình phạt đối với bị cáo.

[10.6] Nguyễn Thị Hồng Q phụ trách kế toán Công ty R Việt Nam. Bị cáo trực tiếp lập các báo cáo thu, chi nội bộ hàng tháng, lập thủ tục để trả lãi, hoa hồng. Quá trình thực hiện, bị cáo biết việc công ty lấy tiền nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng, chi phí hoạt động. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo bị cáo Q 7 năm tù là mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Bị cáo Q xin giảm nhẹ hình phạt nhưng ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng thì tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới chưa được áp dụng. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo Q không được chấp nhận.

[10.7] Trần Quốc C là Trưởng phòng kinh doanh Công ty R Việt Nam. C biết Công ty R Việt Nam không được phép huy động tài chính, không được kinh doanh ngoại hối nhưng vẫn giới thiệu cho nhà đầu tư nhằm hưởng hoa hồng nhân viên, hoa hồng quản lý từ các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đồng thời, C cũng biết hệ thống Khanh Members dùng tiền của nhà đầu tư để chi trả lãi, hoa hồng nhưng vẫn phát triển, mở rộng nhánh dưới để hưởng lãi, hoa hồng nhưng vẫn giúp sức Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư.

Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 8 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới chưa được áp dụng. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.

[10.8] Nguyễn Đức L đã tìm người, tiến hành lập trình hệ thống Khanh Members với chức năng quản lý thành viên, trả lãi hàng ngày, hoa hồng giới thiệu trực tiếp, hoa hồng cân cặp, hệ thống bắt đầu vận hành từ tháng 4/2018. Trực tiếp quản trị, điều hành hệ thống Khanh Members, trích xuất file mềm yêu cầu rút tiền của thành viên, giao cho bộ phận kế toán để thực hiện việc chi trả lãi, hoa hồng. Mặc dù biết hoạt động của hệ thống Khanh Members có những hạn chế như: không giới hạn số lần nhận hoa hồng giới thiệu, hoa hồng cân nhánh, việc duy trì gói Clone (gói nhân bản, không hoàn tiền đầu tư) khiến Công ty luôn phải trả lãi cho thành viên và đã báo cáo cho Kim Bum J nhưng được yêu cầu tiếp tục làm theo chỉ đạo. Đồng thời, L cũng đầu tư vào Khanh Members, được trả lãi, hoa hồng đầy đủ nên tiếp tục làm việc cho đến khi công ty ngừng hoạt động. Từ tháng 01/2018 đến tháng 01/2019, L hưởng lợi 270.598.368 đồng .

Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo được xác định với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Kim Bum J chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 9 năm 6 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Tại phiên tòa, bị cáo cung cấp chứng cứ đã nộp số tiền 20.000.000 đồng (Theo Biên lai thu số 0000891 ngày 20/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh). Đây là tình tiết mới sau khi xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, số tiền khắc phục trên là quá nhỏ so với số tiền hưởng lợi trái pháp luật. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới chưa được áp dụng. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.

[11] Trong vụ án này, có nhiều bị cáo tham gia với vai trò khác nhau. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét hành vi của các bị cáo, đồng thời xác định vai trò, cá thể hóa hình phạt của từng bị cáo và xử phạt hình phạt tù đối với các bị cáo là phù hợp với tích chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là đúng pháp luật.

[12] Xét kháng cáo của các bị hại, thấy rằng:

[12.1] Đối với kháng cáo của ông Nguyễn Minh T [12.1.1] Quá trình điều tra đã xác định Nguyễn Thị H là người đại diện theo pháp luật và trực tiếp quản lý, hỗ trợ Kim Bum J điều hành các hoạt động của các công ty. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đồng phạm giúp sức tích cực nhất. Từ tháng 12/2015 đến tháng 01/2019, Nguyễn Thị H hưởng lợi trái pháp luật tổng cộng 2.094.053.004 đồng. Bị cáo H tuy cho rằng không biết bị cáo Kim Bum J lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị hại nhưng đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và tỏ ra hối hận về những gì đã làm nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và xử phạt H 18 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[12.1.2] Bản án sơ thẩm đã buộc các bị cáo trả lại cho ông T số tiền 452.704.981 đồng. Ông T kháng cáo yêu cầu buộc bị cáo H trả lại 30.000.000.000 đồng mà không kháng cáo phần trách nhiệm dân sự đối với số tiền 452.704.981 đồng nêu trên. Trong vụ án này, Kim Bum J là chủ mưu, bị cáo H có vai trò đồng phạm giúp sức tích cực nhất trong việc giúp Kim Bum J lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị hại. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bị cáo H trả lại 2.094.053.004 đồng là có căn cứ. Quá trình điều tra, bị cáo D đã khắc phục cho một số bị hại mà bị cáo đã gây ra nên Tòa án cấp sơ thẩm không tính số tiền này vào số tiền chung để trả cho tất cả các bị hại là có căn cứ.

[12.1.3] Hồ sơ vụ án thể hiện các nhân viên kinh doanh (sale), trong đó có Nguyễn Thị Như Q là người trực tiếp giao dịch với khách hàng đầu tư và là một khâu trong quá trình để Kim Bum J và các đồng phạm khác chiếm đoạt tài sản của bị hại theo các hợp đồng huy động vốn. Thực tế, Nguyễn Thị Như Q và các nhân viên kinh doanh khác đã giới thiệu cho bị hại và được hưởng hoa hồng theo thỏa thuận với Công ty. Việc các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không xem xét việc giúp sức trên có đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hay không là không đúng như ý kiến của Viện kiểm sát đã nêu tại phiên tòa và kháng cáo của ông T.

[12.2] Đối với kháng cáo của bà Huỳnh Thị Ngọc H:

[12.2.1] Về kháng cáo đề nghị xem xét phần trách nhiệm dân sự, buộc Công ty R Việt Nam và Công ty K A bồi thường tổng cộng 22.373.997.318 đồng: Quá trình điều tra, cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm đã xác minh số tiền mà Công ty R Việt Nam và Công ty K A huy động vốn theo các hợp đồng với bị hại là đúng quy định.

[12.2.2] Về kháng cáo xem xét trách nhiệm của Nguyễn Thị Như Q: Như nội dung nêu tại mục [12.1.3] thì kháng cáo của bà H không được chấp nhận.

[12.3] Đối với kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim A đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo Q: Bị cáo Q bị truy tố theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ 15 đến 20 năm tù. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng, đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo 7 năm tù là mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề được áp dụng là đúng quy định. Vì vậy kháng cáo của bà A là không có căn cứ.

[13] Xét kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, thấy rằng:

[13.1] Trong thời gian từ tháng 04/2015 đến tháng 10/2018, Kim Bum J đã thành lập 04 công ty, gồm: Công ty IDS C (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cấp ngày 17/4/2015), Công ty IDS H (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cấp ngày 20/5/2016), Công ty R Việt Nam (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cấp ngày 11/4/2017) và Công ty K A (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cấp ngày 21/3/2018). Các công ty này do Kim Bum J là người đại diện theo pháp luật để thực hiện việc huy động tài chính trái pháp luật. Kết quả điều tra đã xác định: Thực tế các công ty trên không chuyển tiền sang Hàn Quốc đầu tư, không tiến hành các hoạt động kinh doanh như quảng cáo; tiền huy động của nhà đầu tư được sử dụng để chi trả lãi, hoa hồng cho người tham gia trước, chi phí hoạt động công ty, duy trì hệ thống và chiếm đoạt, sử dụng cho cá nhân. Sau đó, Kim Bum J tiếp tục thành lập thêm 06 công ty và bố trí nhân sự là người đại diện theo pháp luật, trong đó có Công ty KH (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngày 22/01/2018) và Công ty K (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngày 15/10/2018. Các doanh nghiệp này đều do Kim Bum J là người đại diện theo pháp luật.

[13.2] Quá trình hoạt động, Công ty KH đã ký kết hợp đồng với Công ty K C, Công ty NP, Công ty Viễn thông AC, Công ty A Việt Nam, Công ty OC, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD (REACTEC) và Công ty Khanh Touris ký kết hợp đồng với Công ty TVC để thực hiện nhiều công việc, cụ thể:

[13.2.1] Hợp đồng giữa Công ty KH với Công ty K C: Kết quả điều tra xác định, Công ty K C đã nhận của Công ty KH tổng số tiền 14.331.224.898 đồng, gồm các khoản tiền đặt cọc, thanh toán tiền thuê mặt bằng, thi công công trình...Ngoài ra, Công ty K C và Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD đã nhận Công ty KH tổng số tiền 774.400.000 đồng.

[13.2.2] Hợp đồng giữa Công ty KH với Công ty D: Kết quả điều tra xác định tổng số tiền Công ty D đã nhận của Công ty KH là 4.935.994.999 đồng và 224.005.000 đồng; Công ty KH đã nhận số tiền 224.005.000 đồng tiền phí đặt cọc của Công ty D.

[13.2.3] Hợp đồng giữa Công ty KH với Công ty Nội thất S: Kết quả điều tra xác định tổng số tiền Công ty Nội thất S đã nhận của Công ty KH 466.049.650 đồng.

[13.2.4] Hợp đồng giữa Công ty KH với Công ty NP: Kết quả điều tra xác định tổng số tiền Công ty NP đã nhận của Công ty KH 1.870.161.000 đồng.

[13.2.5] Hợp đồng giữa Công ty KH với Công ty Viễn thông AC: Kết quả điều tra xác định tổng số tiền Công ty Viễn thông AC đã nhận của Công ty KH 167.272.230 đồng.

[13.2.6] Hợp đồng giữa Công ty KH với Công ty A Việt Nam và Công ty OC: Kết quả điều tra xác định tổng số tiền Công ty A Việt Nam và Công ty OC đã nhận của Công ty KH 1.605.500.000 đồng.

[13.2.7] Hợp đồng giữa Công ty KH với Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD (REACTEC): Kết quả điều tra xác định, Công ty K C và Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD có ký hợp đồng liên quan đến thực hiện hợp đồng giữa Công ty K C và Công ty KH. Công ty K C đã nhận của Công ty KH là 774.400.000 đồng, trong đó Công ty K C đã thanh toán cho Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD số tiền 387.200.000 đồng.

[13.2.8] Hợp đồng giữa Công ty Khanh Touris với Công ty TVC: Công ty TVC và Công ty Khanh Touris có ký hợp đồng để thi công nội thất và trang trí Tàu S38. Kết quả điều tra xác định, tổng số tiền mà Công ty TVC đã nhận của Công ty Khanh Touris 466.477.000 đồng.

[13.2.9] Mặc dù, hợp đồng giữa: Công ty K C, Công ty NP, Công ty Viễn thông AC, Công ty A Việt Nam, Công ty OC và Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD với Công ty KH, cũng như hợp đồng giữa Công ty TVC với Công ty Khanh Touris được ký kết giữa các pháp nhân được thành lập hợp pháp theo pháp luật và các bên giao kết hợp đồng với Công ty KH và Công ty Khanh Touris không thể biết được các công ty này hoạt động trái pháp luật. Như nội dung nêu tại mục [8] thì Tòa án cấp sơ thẩm xác định nguồn tiền để thanh toán cho các công ty đều có nguồn gốc từ việc huy động tài chính trái phép. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc các công ty phải trả lại số tiền đã nhận là có căn cứ, đúng pháp luật. Việc cho rằng ngoài nguồn tiền trên còn có 2 nguồn khác là đầu tư từ Hàn Quốc và thu từ hoạt động kinh doanh là không có căn cứ.

[13.3] Quá trình hoạt động, Công ty R Việt Nam đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với ông Thạch Văn Th, ông Nguyễn Hữu B, bà Nguyễn Thị Anh Th1, cụ thể:

[13.3.1] Ông Thạch Văn Th và Công ty R Việt Nam ký 02 Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 280218585/HĐHTKD (số tiền 200.000.000 đồng) và số 090318639/HĐHTKD (số tiền 100.000.000 đồng). Các hợp đồng trên chưa thanh lý. Ông Th đã nhận tiền lãi từ các hợp đồng trước đó là 389.100.000 đồng nên chênh lệch của tiền lãi đã nhận trừ tiền góp vốn là 89.100.000 đồng.

[13.3.2] Ông Nguyễn Hữu B và Công ty R Việt Nam có ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 2511181340/HĐHTKD (số tiền 2.919.803.250 đồng), hợp đồng này không được thanh lý. Tổng tiền lãi ông Nguyễn Hữu B đã nhận từ các hợp đồng trước đó là 6.589.900.225 đồng nên chênh lệch của tiền lãi đã nhận trừ tiền góp vốn là 3.670.096.975 đồng.

[13.3.3] Bà Nguyễn Thị Anh Th1 và Công ty R Việt Nam có ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 1110181203/HĐHTKD (số tiền 2.000.000.000 đồng). Tổng tiền lãi bà Th1 đã nhận từ các hợp đồng trước đó là 2.735.400.000 đồng nên chênh lệch của tiền lãi đã nhận trừ tiền góp vốn là 735.400.000 đồng. Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm bà Th1 xác nhận ngày 08/12/2020 có nhận của bị cáo Nguyễn Hoàng D 240.000.000 đồng như biên bản xác nhận mà bị cáo D đã cung cấp.

[13.3.4] Mặc dù, hợp đồng giữa Công ty R Việt Nam với ông Th, ông Nguyễn Hữu B, bà Th1 là tự nguyện nhưng thực tế, Công ty R Việt Nam đã huy động tài chính trái pháp luật và tiền để trả lãi cho các ông bà có nguồn gốc do phạm tội mà có nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc các ông bà phải nộp lại chênh lệch của tiền lãi đã nhận trừ tiền góp vốn là có căn cứ. Riêng, bà Th1 còn phải trả số tiền 240.000.000 đồng đã nhận của bị cáo Nguyễn Hoàng D là đúng pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Th có nộp các tài liệu thể hiện ông có đầu tư chung với 13 người tại các hợp đồng đã ký với Công ty và các hợp đồng này chưa được tất toán. Tuy nhiên, do 13 người này chưa có đơn tố cáo, chưa được lấy lời khai theo đúng trình tự của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, đồng thời dành quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác để ông Th yêu cầu các bị cáo phải trả lại các khoản tiền mà ông đã đầu tư là đúng quy định.

[13.3.5] Ông Thạch Văn Th, ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị Anh Th1 kháng cáo nhưng không có căn cứ chứng minh nên không được chấp nhận.

[14] Về ý kiến của Viện kiểm sát đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm vì việc điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ mà cấp sơ thẩm không thể bổ sung được, cụ thể: Tòa án cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Thị Hồng Q, Trần Quốc C phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền 77.622.361.557 đồng là không chính xác; Các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không xem xét trách nhiệm của nhân viên kinh doanh (sale), trong đó có Nguyễn Thị Như Q là bỏ lọt số tiền phạm tội và bỏ lọt tội phạm. Mặc dù, Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ vụ án để làm rõ tổng số tiền chiếm đoạt và không được Viện kiểm sát chấp nhận nhưng trong vụ án này phải xác định được số tiền các bị cáo chiếm đoạt, sau đó khi lượng hình thì Tòa án mới xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[14.1] Quá trình điều tra đã xác định các bị cáo Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D là đồng phạm giúp sức cho Kim Bum J ngay khi thành lập các Công ty từ năm 2015 nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo này phải chịu trách nhiệm đối với số tiền 77.622.361.557 đồng là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo Ninh Thị Thanh T1 làm kế toán trưởng cho Công ty IDS C và IDS Holding từ tháng 11/2015 đến tháng 7/2017; Nguyễn Thị Hồng Q làm kế toán cho Công ty R Việt Nam từ tháng 4/2017 đến tháng 2/2018; Nguyễn Thị Kim T làm kế toán cho Công ty IDS H và Công ty R Việt Nam từ tháng tháng 12/2017 đến tháng 2/2019; Trần Quốc C là Trưởng phòng kinh doanh Công ty R Việt Nam từ tháng 8/2017 đến tháng 11/2018; Nguyễn Đức L làm việc tại Công ty R Việt Nam từ tháng 12/2017 đến tháng 02/2019.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo trên phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền 77.622.361.557 đồng là chưa chính xác như Viện kiểm sát đã nêu là đúng. Tuy nhiên, các bị cáo trong vụ án được xác định là đồng phạm với vai trò giúp sức Kim Bum J trong việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 156 bị hại, số tiền 77.622.361.557 đồng nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với số tiền đã thu, thanh toán cho người đầu tư trong thời gian các bị cáo làm việc, số tiền các bị cáo phải chịu trách nhiệm cũng thuộc quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với các bị cáo này.

[14.2] Như nội dung nêu tại mục [12.1.3] thì các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không xem xét trách nhiệm của những nhân viên kinh doanh với vai trò đồng phạm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là không đúng pháp luật. Tuy nhiên, hành vi của các nhân viên kinh doanh là độc lập với hành vi của các bị cáo khác trong vụ án nên việc hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để xem xét trách nhiệm của các nhân viên kinh doanh này là không cần thiết. Hội đồng xét xử kiến nghị cơ quan điều tra có thẩm quyền tiếp tục điều tra là rõ hành vi của các nhân viên kinh doanh nêu trên là phù hợp.

[14.3] Quá trình điều tra, Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ vụ án để làm rõ tổng số tiền người đầu tư đã chuyển vào các Công ty theo các hợp đồng, tổng số tiền lãi đã nhận từ năm 2015. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên cáo trạng và chỉ xác định số tiền chiếm đoạt 77.622.361.557 đồng của 156 bị hại. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết vụ án là đúng quy định.

[14.4] Như vậy, việc hủy án vì lý do Viện kiểm sát nêu trên là không phù hợp quy định tại Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[15] Đối với các đối tượng liên quan trong vụ án, gồm: Trịnh Hồng Duy, Tăng Duy Hiếu, tuy có tham gia việc thành lập Công ty K I, hoặc tham gia Câu lạc bộ Poker Công ty KH nhưng các tổ chức này chưa hoạt động và D, Hiếu tham gia vào việc huy động tiền, cũng không hưởng lợi gì; Huỳnh Thị Hồng Phúc, Nguyễn Tường Toàn là các thông dịch viên không tham gia tất cả các cuộc họp, không biết việc chiếm đoạt tiền của Kim Bum J và những người khác; Phan Lê Như H, Trịnh Thế P, Phạm Q H có thực hiện việc hướng dẫn của bị cáo Nguyễn Hoàng D để tiếp cận các khách hàng nhưng chưa trực tiếp thực hiện các hợp đồng và cũng không hưởng lợi. Do đó, Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật. Riêng đối tượng Phùng Trí Vĩ đã trực tiếp chuyển tiền đi nước ngoài nhưng quá trình điều tra không thu thập được tài liệu chứng minh nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh và xử lý khi đủ căn cứ là đúng pháp luật.

[16] Từ những nội dung nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo: Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Thị Hồng Q, Trần Quốc C, Nguyễn Đức L; Không chấp nhận kháng cáo của các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Ninh Thị Thanh T1 và Nguyễn Thị Kim T. Ý kiến của Viện kiểm sát không phù hợp với nhận định trên nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo nhưng không được chấp nhận phải chịu án phí phúc thẩm; Các bị cáo Ninh Thị Thanh T1 và Nguyễn Thị Kim T không phải chịu án phí phúc thẩm.

[17] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiêu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T.

2. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Thị Hồng Q, Trần Quốc C, Nguyễn Đức L.

3. Không chấp nhận kháng cáo của các bị hại, gồm các ông (bà): Nguyễn Minh T, Nguyễn Thị Kim A, Huỳnh Thị Ngọc H.

4. Không chấp nhận kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, gồm các ông (bà): Thạch Văn Th, Nguyễn Hữu B, Nguyễn Thị Anh Th1 và các công ty: Công ty Cổ phần A D, Công ty TNHH Nội thất S, Công ty Cổ phần K C, Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại A Việt Nam, Công ty TNHH Kiến trúc OC, Công ty TNHH Phát triển, Cơ khí, Xây dựng, Thương mại NP, Công ty Cổ phần Viễn thông AC, Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại TVC, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD.

5. Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 246/2023/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về hình phạt đối với các bị cáo Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T.

I. Về tội danh và hình phạt:

6. Tuyên bố các bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Đức L, Nguyễn Thị Kim T, Trần Quốc C, Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Hồng Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

7. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 39; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

7.1. Xử phạt bị cáo Kim Bum J tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2020.

7.2. Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Kim Bum J để đảm bảo thi hành án.

8. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

8.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2020.

8.2. Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thị H để đảm bảo thi hành án.

9. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 58; của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

9.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng D 17 (mười bảy) năm tù.

9.2. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

10. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, khoản 1 Điều 54, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

10.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù.

10.2. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

11. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, khoản 1 Điều 54, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

11.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim T 08 (tám) năm 6 (sáu) tháng tù.

11.2. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

12. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, khoản 1 Điều 54, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

12.1. Xử phạt bị cáo Trần Quốc C 08 (tám) năm tù.

12.1. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

13. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, khoản 1 Điều 54, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

13.1. Xử phạt bị cáo Ninh Thị Thanh T1 07 (bảy) năm tù.

13.2. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

14. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, khoản 1 Điều 54, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

14.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng Q 07 (bảy) năm tù.

14.2. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

II. Về trách nhiệm dân sự:

15. Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, buộc bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Trần Quốc C, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Thị Hồng Q, Nguyễn Đức L phải trả lại cho các bị hại các khoản tiền đã chiếm đoạt, cụ thể:

15.1. Bị cáo Kim Bum J phải trả lại là 65.130.753.178 (sáu mươi lăm tỷ, một trăm ba mươi triệu, bảy trăm năm mươi ba nghìn, một trăm bảy mươi tám) đồng.

15.2. Bị cáo Nguyễn Thị H phải trả lại 2.074.053.004 (hai tỷ, không trăm bảy mươi bốn triệu, không trăm năm mươi ba nghìn. không trăm linh bốn) đồng.

15.3. Bị cáo Nguyễn Thị Kim T phải trả lại 118.280.280 (một trăm mười tám triệu, hai trăm tám mươi nghìn, hai trăm tám mươi) đồng.

15.4. Bị cáo Trần Quốc C phải trả lại 520.451.369 (năm trăm hai mươi triệu, bốn trăm năm mươi mốt nghìn, ba trăm sáu mươi chín) đồng.

15.5. Bị cáo Nguyễn Hoàng D phải trả lại 4.792.065.859 (bốn tỷ, bảy trăm chín mươi hai triệu, không trăm sáu mươi lăm nghìn, tám trăm năm mươi chín) đồng.

15.6. Bị cáo Nguyễn Đức L phải trả lại 115.598.369 (một trăm mười lăm triệu, năm trăm chín mươi tám nghìn, ba trăm sáu mươi chín) đồng.

Bị cáo Ninh Thị Thanh T1 đã nộp đủ số tiền chiếm đoạt.

16. Chi tiết trả lại cho 156 bị hại các khoản tiền đã nêu tại Bản án sơ thẩm số 246/2023/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

III. Các biện pháp tư pháp:

17. Căn cứ Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, buộc các tổ chức, cá nhân phải nộp lại các khoản tiền để bảo đảm phần nghĩa vụ thi hành án của các bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Trần Quốc C, Ninh Thị Thanh T1, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Thị Hồng Q, Nguyễn Đức L trả lại cho các bị hại như đã nêu ở trên, cụ thể như sau:

17.1. Ông Nguyễn Hữu B phải nộp lại số tiền 3.670.096.975 (ba tỷ, sáu trăm bảy mươi triệu, không trăm chín mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi lăm) đồng.

17.2. Bà Nguyễn Thị Anh Th1 phải nộp lại số tiền 975.400.000 (chín trăm bảy mươi lăm triệu, bốn trăm nghìn) đồng.

17.3. Công ty Cổ phần A D phải nộp lại số tiền 4.935.994.999 (bốn tỷ, chín trăm ba mươi lăm triệu, chín trăm chín mươi bốn nghìn, chín trăm chín mươi chín) đồng.

17.4. Công ty TNHH Nội thất S phải nộp lại số tiền 466.049.650 (bốn trăm sáu mươi sáu triệu, không trăm bốn mươi chín nghìn, sáu trăm năm mươi) đồng.

17.5. Công ty Cổ phần K C phải nộp lại số tiền 14.331.224.898 (mười bốn tỷ, ba trăm ba mươi mốt triệu, hai trăm hai mươi bốn nghìn, tám trăm chín mươi tám) đồng và 387.200.000 (ba trăm tám mươi bảy triệu, hai trăm nghìn) đồng. Tổng cộng là 14.718.424.898 (mười bốn tỷ, bảy trăm mười tám triệu, bốn trăm hai mươi bốn nghìn, tám trăm chín mươi tám) đồng.

17.6. Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD phải nộp lại 387.200.000 (ba trăm tám mươi bảy triệu, hai trăm nghìn) đồng.

17.7. Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại A Việt Nam phải nộp lại số tiền 802.750.000 (tám trăm linh hai triệu, bảy trăm năm mươi nghìn) đồng.

17.8. Công ty TNHH Kiến trúc OC phải nộp lại số tiền 802.750.000 (tám trăm linh hai triệu, bảy trăm năm mươi nghìn) đồng.

17.9. Công ty TNHH Phát triển cơ khí, Xây dựng, Thương mại NP phải nộp lại số tiền 1.870.161.000 (một tỷ, tám trăm bảy mươi triệu, một trăm sáu mươi mốt nghìn) đồng.

17.10. Công ty Cổ phần Viễn thông AC phải nộp lại số tiền 167.272.230 (một trăm sáu mươi bảy triệu, hai trăm bảy mươi hai nghìn, hai trăm ba mươi) đồng.

17.11. Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại TVC phải nộp lại số tiền 466.477.000 (bốn trăm sáu mươi sáu triệu, bốn trăm bảy mươi bảy nghìn) đồng.

18. Các tổ chức, cá nhân trên và ông Thạch Văn Th nếu có tranh chấp thì được quyền làm đơn khởi kiện bằng vụ án dân sự khác để yêu cầu các bị cáo trả lại tiền khi có yêu cầu.

19. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

20. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật thi hành án dân sự) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

IV. Về xử lý vật chứng: Theo Bản án sơ thẩm số 246/2023/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Án phí phúc thẩm:

21.1. Các bị cáo Ninh Thị Thanh T1 và Nguyễn Thị Kim T không phải chịu án phí phúc thẩm.

21.2. Các bị cáo Kim Bum J, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Thị Hồng Q, Trần Quốc C, Nguyễn Đức L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

21.3. Các bị hại, gồm các ông (bà) Nguyễn Minh T, Nguyễn Thị Kim A, Huỳnh Thị Ngọc H, mỗi người phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

21.4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, gồm các ông (bà) Thạch Văn Th, Nguyễn Hữu B, Nguyễn Thị Anh Th1 và các Công ty, gồm: Công ty Cổ phần A D, Công ty TNHH Nội thất S, Công ty Cổ phần K C, Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại A Việt Nam, Công ty TNHH Kiến trúc OC, Công ty TNHH Phát triển Cơ khí, Xây dựng, Thương mại NP, Công ty Cổ phần Viễn thông AC, Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại TVC, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ XD, mỗi đương sự phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

22. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

23. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 958/2023/HS-PT

Số hiệu:958/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về