Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 95/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 95/2023/HS-PT NGÀY 08/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2023/TLPT-HS ngày 16/3/2023 đối với bị cáo Đỗ Thành D, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2023/HSST ngày 08/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Đỗ Thành D; sinh năm 1977 tại tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã ET, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 4A, phường TL, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn T và bà Phạm Thị T; có vợ là Trần Tú T (Đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo được tại ngoại - có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Thành D có mối quan hệ quen biết với ông Đỗ Kim L. Do biết chị Nguyễn Thị H (là cháu ông L) cần xin vào làm việc tại cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, nên D nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông L và chị H. D đưa ra thông tin gian dối là có mối quan hệ quen biết với người có khả năng xin việc cho chị H, số tiền để xin việc cho chị H là 120.000.000 đồng. Vì tin tưởng D nên ông L và chị H đã đưa hồ sơ nhờ D xin việc cho chị H. Ngày 24/11/2014, tại quán cà phê gần khu Công nghiệp T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, chị H đến gặp và đưa cho D số tiền 50.000.000 đồng, D nhận tiền và viết giấy biên nhận, hẹn trong vòng 03 tháng nếu không xin được việc sẽ trả lại tiền. Đến ngày 20/12/2014, ông L tiếp tục đưa thêm cho D số tiền 20.000.000 đồng tại đường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Tổng số tiền D đã nhận để xin việc cho chị H là 70.000.000 đồng. Tuy nhiên, D không xin việc cho chị H và cũng không nộp bộ hồ sơ xin việc của chị H vào bất kỳ cơ quan Nhà nước nào mà sử dụng số tiền này tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 22/10/2021, ông Đỗ Kim L đã làm đơn tố giác Đỗ Thành D về hành vi chiếm đoạt tài sản của chị Nguyễn Thị H. Ngày 13/01/2022, Đỗ Thành D đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk số tiền 70.000.000 đồng mà D đã nhận của chị H.

Ngày 10/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 142 trưng cầu phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk giám định Chữ viết phần nội dung trên Giấy biên nhận và chữ ký, chữ viết mang tên Đỗ Thành D.

Tại Kết luận giám định số 268/KL-KTHS ngày 29/3/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ viết phần nội dung trên mẫu cần giám định ký hiệu Al; chữ ký, chữ viết họ tên Đỗ Thành D trên mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ viết, chữ ký mang tên Đỗ Thành D trên mẫu so sánh ký hiệu M do cùng một người viết, ký ra.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HSST ngày 08/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Thành D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thành D 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 21/02/2023, bị cáo Đỗ Thành D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại điện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Thành D và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng tội. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là không chính xác, bởi lẽ trong vụ án này, khi bị cáo đưa ra thông tin gian dối nhằm chiếm đoạt số tiền 120.000.000 đồng của bị hại, bị hại đã đồng ý và đưa trước số tiền 50.000.000 đồng cho bị cáo, tiếp đến ngày 20/12/2014 bị hại tiếp tục đưa số tiền 20.000.000 đồng cho bị cáo mặc dù bị cáo không đưa ra thêm thông tin gì khác. Như vậy lần giao tiền thứ hai này bị hại tự nguyện đưa cho bị cáo như thỏa thuận ban đầu, do đó cần bỏ không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Đỗ Thành D tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 24/11/2014 đến ngày 20/12/2014, bị cáo Đỗ Thành D đã đưa ra thông tin gian dối rằng có khả năng xin việc vào các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk để chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H số tiền 70.000.000 đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đỗ Thành D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét nội dung vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Đỗ Thành D đã đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt số tiền 70.000.000 đồng của chị H; tiền được giao cho bị cáo D 02 lần, vào ngày 24/11/2014 với số tiền 50.000.000 đồng và ngày 20/12/2014 với số tiền 20.000.000 đồng. Mặc dù bị cáo nhận tiền của bị hại 02 lần nhưng bản chất mục đích của bị cáo là chiếm đoạt số tiền đã thỏa thuận từ ban đầu, việc giao tiền làm 02 lần trong trường hợp này chỉ là để nhận thêm tiền như đã thỏa thuận từ trước. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi của bị cáo thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là chưa chính xác, không đúng bản chất của việc xác định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong trường hợp này bị cáo chỉ thực hiện hành vi phạm tội 01 lần, việc nhận tiền 02 lần chỉ là biểu hiện khách quan của 01 hành vi chiếm đoạt.

Xét thấy sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, khắc phục toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên”. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Đỗ Thành D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đỗ Thành D - Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HSST ngày 08/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thành D 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm, căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Đỗ Thành D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 95/2023/HS-PT

Số hiệu:95/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về