TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 93/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2023/TLST- HS ngày 10 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2023/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Xuân D, sinh ngày 08/12/1990 tại Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình Nơi cư trú: thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Xuân S, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1966; vợ: Ngô Thị N, sinh năm 1996 (đã ly hôn); vợ hiện tại: Vùi Thị H1, sinh năm 1993; con: có 03 con sinh năm 2015, 2019, 2020. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định số 1104 ngày 30/6/2006 của Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh Đắk Lắk về việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 01/6/2007.
Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/5/2023 đến nay (Có mặt tại phiên tòa) - Bị hại:
Anh Đào Xuân C, sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn a, xã K, huyện K, thành phố Hải Phòng
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Bà Phạm Thị H, sinh năm 1966 Địa chỉ: Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình tòa).
Chị Vùi Thị H, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình
- Người làm chứng:
+ Chị Phạm Thị T, sinh năm 1989 Địa chỉ: Tổ 4, xã M, huyện K, tỉnh Thái Bình
+ Ông Vũ Văn H1, sinh năm 1965 Địa chỉ: Tổ 8, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình
+ Anh Bùi Văn G, sinh năm 1994 Địa chỉ: Phố L, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình (Anh C, chị T, ông H1, anh G vắng mặt; bà H, chị H1có mặt tại phiên
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Xuân D làm nghề sơn nhà, công trình xây dựng. Khoảng tháng 10 năm 2020, thông qua mạng xã hội Facebook, D kết bạn Facebook với anh Đào Xuân C, sinh năm 1985, trú tại Thôn a, xã K, huyện K, thành phố Hải Phòng. Sau đó D liên lạc qua Facebook, đặt mua của anh C 03 thùng sơn chống thấm gốc dầu. Tuy nhiên, khi dùng 01 thùng sơn để sơn cho khách thì màu sơn không như ý muốn. Do vậy, D liên lạc với anh C xin gửi lại 02 thùng sơn nhưng anh C không đồng ý. D bực tức nên nảy sinh ý định sẽ lừa đặt mua sơn của anh C rồi chiếm đoạt.
Biết anh C sử dụng số điện thoại 092433xxxx, khoảng 13 giờ ngày 23/3/2023, D sử dụng điện thoại di động màn hình cảm ứng của mình tìm kiếm số điện thoại 092433xxxx tại ứng dụng Zalo ra được tài khoản có tên “C” của anh C. D gửi lời mời kết bạn, anh C đồng ý. Sau đó, D gọi điện, nhắn tin qua ứng dụng Zalo đặt mua của anh C 06 thùng sơn gồm: 02 thùng sơn JOTUN đẹp hoàn hảo, mỗi thùng thể tích 15 lít; 02 thùng sơn LATECH chống thấm, mỗi thùng thể tích 18 lít; 01 thùng sơn JOTUN chống phai màu, thể tích 15 lít và 01 thùng sơn JOTUN lót nội thất cao cấp, thể tích 17 lít. D và anh C thỏa thuận giá 06 thùng sơn trên là 10.136.000 đồng, phương thức nhận hàng qua xe khách, cước vận chuyển D phải trả. Anh C cung cấp tài khoản ngân hàng MBBank số 9985678999, chủ tài khoản Đào Xuân C để phục vụ thanh toán. D cung cấp cho anh C số điện thoại 052214xxxx, lấy tên Nguyễn Văn T là người nhận hàng. Cả hai thỏa thuận, ngay khi nhận được sơn, kiểm tra hàng rồi thanh toán tiền qua chuyển khoản. Anh C yêu cầu D chụp, gửi ảnh căn cước công dân làm tin, D đồng ý. Để không bị phát hiện, D đã gửi ảnh chụp căn cước công dân của anh Võ Đình Th, sinh năm 1997, trú tại xóm 1, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ An có sẵn trong điện thoại của D cho anh C.
Khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày, anh C mang 06 thùng sơn có đặc điểm như trên đến Bến xe V, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng và gửi xe khách mang biển kiểm soát 28B – 007.xy thuộc nhà xe A, chạy tuyến Bến xe V, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đi bến xe Yên Thủy, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình do anh Bùi Văn G, trú tại Phố L, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình làm lái xe. Anh C đặt vấn đề với anh G cho gửi 06 thùng sơn trên đến khu vực cầu Nghìn, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ và hai bên thống nhất cước vận chuyển 06 thùng sơn là 180.000 đồng. Sau đó, anh C đưa cho anh G 01 hóa đơn thu tiền 06 thùng sơn (bản sao qua giấy than), trên hóa đơn thể hiện nội dung giá tiền của 06 thùng sơn trên là 10.136.000 đồng, có số điện thoại người nhận là 052214xxxx. Anh C bảo anh G thu tiền hàng và tiền cước xe của người nhận, rồi hai người trao đổi số điện thoại để liên lạc với nhau. Số điện thoại của anh C là 092433xxxx, số điện thoại xe ô tô khách, biển kiểm soát 28B - xxxxx anh G cung cấp là 0966775abc.
Khoảng 17 giờ 50 phút cùng ngày, anh G điều khiển xe ô tô khách đi theo tuyến đường quy định. Khi di chuyển được khoảng 20 phút, anh G sử dụng điện thoại lắp sim số 0966775abc gọi đến số 0522147abc thì D nghe máy. Anh G hỏi D nhận sơn ở đâu thì D bảo nhận tại chân cầu Nghìn, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ. Anh G bảo tiền sơn là hơn 10 triệu, tiền cước xe là 180.000 đồng, hẹn 18 giờ 50 phút cùng ngày đến nhận sơn, D đồng ý rồi tắt máy. Đến khoảng 18 giờ 50 phút cùng ngày, khi đi đến cầu Nghìn, anh G gọi điện cho D nhiều lần nhưng D không nghe máy. Lúc này, D đang ăn cơm ở nhà cùng mẹ là bà Phạm Thị H và vợ là chị Vùi Thị H1. Ăn cơm xong, D hỏi mượn bà H chiếc xe lôi ba bánh, đường kính mỗi bánh xe là 55 cm, thùng xe bằng tôn kim loại, kích thước (145 x 70 x 30) cm, hai bên thùng xe hàn hai thanh đỡ bằng kim loại, mỗi bên rộng 13 cm; cần kéo hình chữ T dài 87 cm, có buộc đoạn dây màu trắng để đi chở hàng rồi điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream, sơn màu nâu trắng, không đeo biển kiểm soát, đi đến chân cầu Nghìn, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ. Do đợi nhưng không liên lạc được với D nên anh G điều khiển xe khách đi vào cây xăng V, thuộc tổ 2, thị trấn A, huyện Q để đổ dầu. Tại đây, anh G gặp chị Phạm Thị T là quản lý cây xăng V và ông Vũ Văn H1 là nhân viên cây xăng. Đổ dầu xong vẫn không thấy người nhận sơn liên lạc, anh G bảo chị T cho gửi 06 thùng sơn tại cây xăng, khi nào khách đến lấy thì thu tiền sơn, tiền cước xe là 180.000 đồng thì mới giao sơn. Anh G đưa cho chị T hóa đơn thu tiền sơn mà anh C đã đưa cho anh G trước đó và bảo chị T trả trước tiền cước xe là 180.000 đồng. Chị T mượn ông H đưa cho anh G 180.000 đồng. Anh G nhận tiền, để 06 thùng sơn cạnh cột bơm dầu rồi tiếp tục chạy xe theo tuyến. Khi xe chạy được khoảng 150 mét thì anh G thấy D đang đi xe mô tô kéo xe lôi đi ngược chiều. Anh G gọi điện bảo D vào cây xăng lấy sơn rồi tắt máy. D điều khiển xe mô tô kéo xe lôi vào cây xăng V, gặp ông H, chị T và nói đến lấy sơn thì chị T nói nhà xe yêu cầu đưa tiền mới giao hàng. Lúc này, D gọi điện Zalo cho anh C xin lấy hàng trước đưa cho khách rồi sau đó sẽ chuyển khoản, anh C đồng ý. D đưa điện thoại cho chị T nói chuyện với anh C để xác thực việc này. Tuy nhiên, do anh G đã dặn khách trả tiền mới được giao hàng nên chị T gọi điện cho anh G nói chủ sơn đồng ý cho lấy hàng, thanh toán sau. Anh G bảo chị T chờ anh G gọi cho chủ sơn xác nhận. Anh G gọi cho anh C, anh C đồng ý cho D lấy sơn, trả tiền sau. Anh G gọi điện cho chị T, đồng ý cho D lấy sơn nên chị T giao 06 thùng sơn và đưa tờ hóa đơn tiền hàng cho D, yêu cầu D trả tiền cước xe 180.000 đồng cho ông H. D đưa cho ông H 180.000 đồng rồi chuyển 06 thùng sơn trên lên thùng xe lôi và chở về nhà, trên đường D đã làm rơi tờ hóa đơn ở đoạn đường nào D không rõ. Đến nhà, D chặn liên lạc Zalo với anh C, tháo sim thuê bao 0522147abc ra khỏi điện thoại và sau đó đã vứt đi trên đường đi làm ở thành phố Hải Phòng, không nhớ vị trí nào. Đối với 06 thùng sơn D chiếm đoạt được, D đã sử dụng để sơn nhà D hết.
Ngày 06/4/2023, anh Đào Xuân C đã có đơn trình báo sự việc trên đến Công an huyện Quỳnh Phụ. Cơ quan điều tra đã triệu tập Trần Xuân D lên làm việc. Tại trụ sở Cơ quan Công an, D đã thành khẩn khai nhận hành vi trên và tự nguyện giao nộp: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, kiểu máy Iphone 7, màu đen, số sê-ri DX3Y31KWHABC; 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, màu nâu trắng, không đeo biển kiểm soát; 01 chiếc xe lôi ba bánh, đường kính mỗi bánh xe là 55 cm, thùng xe bằng tôn kim loại, kích thước (145x70x30) cm, hai bên hàn 2 thanh đỡ bằng kim loại, mỗi bên rộng 13 cm, cần kéo hình chữ T dài 87 cm; 06 vỏ thùng sơn, có nắp đậy, đều đã sử dụng hết sơn gồm 02 vỏ thùng sơn JOTUN đẹp hoàn hảo, mỗi vỏ thùng thể tích 15 lít; 02 vỏ thùng sơn LATECH chống thấm, mỗi vỏ thùng thể tích 18 lít; 01 vỏ thùng sơn JOTUN chống phai màu, thể tích 15 lít và 01 vỏ thùng sơn JOTUN lót nội thất cao cấp, thể tích 17 lít cho Cơ quan điều tra quản lý.
Bản kết luận định giá tài sản số 11/KL-HDĐGTS ngày 13/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Quỳnh Phụ, kết luận: 06 thùng sơn có đặc điểm như trên tại thời điểm bị chiếm đoạt có trị giá 10.936.667 đồng (Mười triệu chín trăm ba mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy đồng).
Cáo trạng số 91/CT-VKSQP ngày 09/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố Trần Xuân D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo Trần Xuân D thừa nhận đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Đào Xuân C như đã nêu trong bản Cáo trạng. Bà Phạm Thị H, chị Vùi Thị H1 giữ nguyên lời khai như đã khai tại giai đoạn điều tra.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Xuân D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Xuân D từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với nhau và với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án (bút lục số 209 - 237); phù hợp với đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của bị hại là anh Đào Xuân C (bút lục số 01, 168 - 175); biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng khác là: bà Phạm Thị H, chị Vùi Thị H1 (bút lục số 197 – 200; 201 – 204), chị Phạm Thị T (bút lục số 178 – 181), ông Vũ Văn H1 (bút lục số 184 – 187), anh Bùi Văn G (bút lục 191 – 194).
Ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau:
- Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu hồi 10 giờ ngày 11/4/2023 tại Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (bút lục 85 - 87);
- Biên bản xác định hiện trường; Sơ đồ hiện trường; bản ảnh hiện trường vụ án do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình lập ngày 06/4/2023 tại cây xăng V thuộc tổ 2, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (bút lục số 80 – 82; 84);
- Bản kết luận định giá tài sản số 11/KL-HDĐGTS ngày 13/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Quỳnh Phụ (bút lục số 14);
Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:
Từ khoảng 13 giờ đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 23/3/2023, bị cáo Trần Xuân D đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối, đặt mua sơn qua mạng Zalo, làm cho anh Đào Xuân C tin là thật mà bán sơn cho D nên D đã chiếm đoạt được của anh C 06 thùng sơn gồm: 02 thùng sơn JOTUN đẹp hoàn hảo, mỗi thùng thể tích 15 lít; 02 thùng sơn LATECH chống thấm, mỗi thùng thể tích 18 lít; 01 thùng sơn JOTUN chống phai màu, thể tích 15 lít và 01 thùng sơn JOTUN lót nội thất cao cấp, thể tích 17 lít tại địa điểm là cây xăng V, thuộc tổ 2, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 10.936.667 đồng (Mười triệu chín trăm ba mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy đồng), sau đó mang về sơn nhà D hết.
Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, ch ưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
…………………………………………… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án, mức độ, hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi dùng thủ đoạn gian dối đặt mua sơn để chiếm đoạt tài sản của bị hại có giá trị 10.936.667 đồng mà bị cáo đã thực hiện vào ngày 23/3/2023 là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó cần thiết phải áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt nhất định nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại nên bị cáo được xét hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về quyết định hình phạt: Từ những phân tích nêu trên, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo với mức dưới mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra đồng thời bảo đảm được mục đích của hình phạt.
Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo làm nghề sơn nhà thuê, công việc và thu nhập không ổn định do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Trần Xuân D đã tự nguyện bồi thường cho anh Đào Xuân C số tiền 11.000.000 đồng bằng tiền riêng của bị cáo. Anh C đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu gì thêm về vấn đề dân sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Đối với bà Phạm Thị H và chị Vùi Thị H1 là mẹ và vợ của bị cáo D, sống cùng nhà với bị cáo song không biết 06 thùng sơn mà bị cáo D mang về sơn nhà là tài sản do D chiếm đoạt được mà có. Bản thân bị cáo tự nguyện không yêu cầu bà H, chị H1 phải cùng có trách nhiệm trả tiền sơn cho bị hại nên cũng cần được ghi nhận.
[7] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 chiếc xe lôi bị cáo dùng để chở tài sản chiếm đoạt (06 thùng sơn) là của bà Phạm Thị H. Bà H không biết việc D dùng chiếc xe lôi của bà làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại chiếc xe lôi cho bà là phù hợp.
Đối với 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, kiểu máy Iphone 7, màu đen, số sê-ri DX3Y31KWHABC, đã qua sử dụng; 01 xe mô tô kiểu dáng Dream, màu sơn nâu trắng, không đeo biển kiểm soát bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Các vật chứng là 06 vỏ thùng sơn, có nắp đậy, đều đã sử dụng hết sơn gồm: 02 vỏ thùng sơn JOTUN đẹp hoàn hảo, mỗi vỏ thùng thể tích 15 lít; 02 vỏ thùng sơn LATECH chống thấm, mỗi vỏ thùng thể tích 18 lít; 01 vỏ thùng sơn JOTUN chống phai màu, thể tích 15 lít và 01 vỏ thùng sơn JOTUN lót nội thất cao cấp, thể tích 17 lít. Bị cáo, bị hại không đề nghị nhận lại, mặt khác giá trị sử dụng không đáng kể nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 02 sim số điện thoại số 032813xxxx và 0522147abc bị cáo dùng đăng ký zalo và gọi điện liên lạc chiếm đoạt tài sản, bị cáo đã làm mất và vứt đi không quản lý được nên không đặt ra giải quyết.
[8] Đối với anh Võ Đình Th, sinh ngày 06/5/1997, trú tại xóm 1, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ An là người bị Trần Xuân D sử dụng hình ảnh căn cước công dân trong việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ đã ủy thác điều tra, xác định anh Th cùng gia đình không còn sinh sống tại địa phương, không xác định được anh Th đi đâu, làm gì nên không làm rõ được nội dung liên quan đến việc D sử dụng hình ảnh căn cước công dân của anh Th.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Xuân D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Xuân D 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo Trần Xuân D đã bồi thường cho bị hại anh Đào Xuân C số tiền 11.000.000 đồng (mười một triệu đồng). Ghi nhận việc bị cáo tự nguyện không yêu cầu bà Phạm Thị H và chị Vùi Thị H1 phải cùng có trách nhiệm đối với số tiền bị cáo đã bỏ ra bồi thường cho bị hại.
4. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, kiểu máy Iphone 7, màu đen, số sê-ri DX3Y31KWHABC, đã qua sử dụng;
01 xe mô tô kiểu dáng Dream, màu sơn nâu trắng, không đeo biển kiểm soát.
- Tịch thu tiêu hủy: 06 vỏ thùng sơn, có nắp đậy, đều đã sử dụng hết sơn gồm 02 vỏ thùng sơn JOTUN đẹp hoàn hảo, mỗi vỏ thùng thể tích 15 lít; 02 vỏ thùng sơn LATECH chống thấm, mỗi vỏ thùng thể tích 18 lít; 01 vỏ thùng sơn JOTUN chống phai màu, thể tích 15 lít và 01 vỏ thùng sơn JOTUN lót nội thất cao cấp, thể tích 17 lít.
(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm chi tiết theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 84 ngày 10 tháng 8 năm 2023 giữa Công an huyện Quỳnh Phụ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ).
5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Xuân D phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (06/9/2023); bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết, tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 93/2023/HS-ST
Số hiệu: | 93/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về