Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 91/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 91/2024/HS-ST NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 04 năm 2024, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2024/TLST- HS ngày 30/01/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2024/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 02 năm 2024, và quyết định hoãn phiên toà số 33/2024/HSST- QĐ ngày 14/3/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Thị Ly V; sinh năm:1990; tại: Quảng Nam; quốc tịch: Vệt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 05/12 - Nghề nghiệp: Không; nơi thường trú: Thôn Ba Hưng, xã Trà Đông, huyện Bắc Trà M, tỉnh Quảng N; con ông: Huỳnh Văn H, sinh năm: 1963 (đã chết); con bà: Nguyễn Thị P, sinh năm: 1964; nơi thường trú: Thôn Ba Hưng, xã Trà Đông, huyện Bắc Trà M, tỉnh Quảng N; gia đình bị cáo có 05 chị em, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1998, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; chồng: Nguyễn Tuấn A, sinh năm: 1985 (đã ly hôn); chồng: Đặng Ngọc L, sinh năm: 1988; Nơi thường trú: Thôn 5, Tam Vnh, Phú N, Quảng Nam; con: Nguyễn Huỳnh Tấn Kh, sinh năm: 2009; nơi thường trú: Thôn N, xã P, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam; con: Đặng Huỳnh Ngọc Trường, sinh năm: 2021; nơi thường trú: Thôn Ba Hưng, xã Trà Đông, huyện Bắc Trà M, tỉnh Quảng Nam ; tiền sự: Không; tiền án:

- Ngày 24/5/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 21 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo bản án số 37/2017/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/9/2018, đã chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm, chưa chấp hành trách nhiệm bồi thường dân sự, án phí dân sự, số tiền thu lợi bất chính để sung công quỹ Nhà nước.

- Ngày 06/9/2022, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức - TP Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo bản án số 336/2022/HSST. Đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm, chưa chấp hành án phí dân sự sơ thẩm và số tiền bồi thường thiệt hại - Ngày 22/3/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo bản án số 73/2023/HSST. Tổng hợp hình phạt với bản án số 336/2022/HSST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức - TP Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo Huỳnh Thị Ly V chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 năm 06 tháng tù. Chưa chấp hành xong toàn bộ bản án.

Nhân thân:

- Ngày 25/02/2013, bị Công an thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số 42/QĐ-XPHC về tội Trộm cắp tài sản, với số tiền 1.000.000 đồng (đã đóng phạt ngày 25/02/2013) - Ngày 30/6/2023, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Kom Tum ra Quyết định khởi tố bị can số 170/QĐ-ĐCSKT-MT về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Phân trại số 5 - Trại giam Xuân Lộc - Bộ Công an.

2.1-Bị hại:

- Công Ty Tài chính TNHH H(H).

Địa chỉ: Lầu 8, 9, 10 Tòa nhà G, số 24, P, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo uỷ quyền cho công ty có ông: Phạm Tiến H, sinh năm 1992 Địa chỉ: 32 Chi Lăng, phường Hoa Lư, thành phố Play Ku – Gia Lai.

2.2-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

1/Bà: Nguyễn Thị Thuý L, sinh năm 1994(vắng) Địa chỉ: 15/16 Trần Khánh D, phường 08, thánh phố Đà Lạt.

2/Bà Trần Thị Thanh Sg, sinh năm 1996 (vắng) Địa chỉ: Tổ 60, khu phố , phường 3, thành phố Đà Lạt.

3/Ông Hồ Nhật H, sinh năm 1988(vắng) Địa chỉ: 115 Phan Đình Phùng, phường 01, thành phố Đà Lạt.

4/Ông: Huỳnh Minh T, sinh năm 2002(vắng) Địa chỉ: Thôn Lộc Châu , Tân Nghĩa, Di Linh, Lâm Đồng.

Người làm chứng:

Ông: Vên Trường Quới H, sinh năm 2003(vắng) Địa chỉ: 02/D26 Mê L, phường 9, thành phố Đà Lạt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Huỳnh Thị Ly V là đối tượng có 02 tiền án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ năm 2017 đến tháng 9/2018, bị cáo chấp hành án phạt tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại trại giam Bình Điền - Cục C10 - Bộ Công an. Trong thời gian chấp hành án bị cáo có quen biết một người phụ nữ tên Phượng, sinh năm 1992, Quê quán: Quảng Nam (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) và Phượng cũng đang chấp hành án phạt tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đã ra tù năm 2018. Đến cuối năm 2021, Phượng có đến nhà bị cáo tại thôn Ba Hương, xã Trà Đông, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam thăm và có gặp mẹ bị cáo và đã xin số điện thoại của bị cáo. Đến khoảng tháng 2/2022, Phượng gọi điện thoại, nhắn tin cho bị cáo rủ bị cáo cùng lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Bằng thủ đoạn, bị cáo gửi hình ảnh chân dung của bị cáo cho Phượng qua ứng dụng Messenger, Phượng sẽ làm các loại giấy tờ như chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe và ghép ảnh của bị cáo vào những giấy tờ trên. Sau đó, Phượng tìm kiếm trao đổi với các cửa hàng bán điện thoại có liên kết với các tổ chức tín dụng cho vay trả góp để mua hàng, khi hồ sơ vay trả góp được duyệt thì Phượng sẽ đưa trước một khoản tiền cho bị cáo, 01 sim điện thoại rác và gửi hình ảnh chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe đã được ghép ảnh của bị cáo, để bị cáo đến cửa hàng điện thoại tự nhận là người có thông tin trên giấy tờ ký hợp đồng vay tín dụng. Sau khi nhận được điện thoại thì bị cáo cầm điện thoại, hợp đồng vay tín dụng và sim rác đưa lại cho Phượng. Mỗi lần giao dịch thành công, Phượng sẽ trả công cho bị cáo từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng/lần.

Khoảng tháng 3/2022 Phượng nhắn tin vào ứng dụng Messenger thuộc Facebook của bị cáo tên “V Huỳnh” rủ bị cáo lên thành phố Đà Lạt chơi. Khoảng 17 giờ ngày 26/03/2022, bị cáo cùng Phượng gặp nhau tại đường Nguyễn Hoàng, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam sau đó cùng lên xe khách đến thành phố Đà Lạt. Khoảng 07 giờ ngày 27/3/2022, khi đến thành phố Đà Lạt, Phượng cùng bị cáo đi ăn sáng sau đó ngồi uống cà phê (không rõ địa chỉ cụ thể). Tại đây, Phượng nói với bị cáo, P đã tìm được cửa hàng điện thoại Huy Mobile tại địa chỉ: 57 Hai Bà Trưng, Phường 6, TP Đà Lạt có bán điện thoại trả góp và hợp đồng vay trả góp đã được duyệt. Phượng đưa cho bị cáo số tiền 14.000.000 đồng, 01 sim điện thoại và gửi ảnh chụp 01 chứng minh nhân dân số 251155147 do Công an tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 12/8/2019 và 01 giấy phép lái xe số 681184001009 do Sở Giao thông vận tải Lâm Đồng cấp ngày 26/04/2018 đều mang tên Trần Thị Tuyết N nhưng ảnh chân dung trên 02 giấy tờ trên là ảnh chụp chân dung của bị cáo qua ứng dụng Messenger. Phượng nói bị cáo đến cửa hàng điện thoại Huy Mobile, sử dụng thông tin trên ảnh chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe do Phượng đưa để ký hợp đồng vay tín dụng và lấy điện thoại về. Sau đó, Phượng đặt xe ôm Grab chở V đến cửa hàng Huy Mobile, Phượng ngồi đợi tại quán cà phê. Khoảng 14 giờ ngày 27/3/2022, V đến cửa hàng điện thoại Huy Mobile, khi đến nơi V nói với nhân viên công ty tín dụng: “Mình tên Nh đến ký hợp đồng, lúc sáng bên công ty có báo là hợp đồng của mình đã duyệt”, thì nhân viên Công ty tài chính TNHH H là bà Trần Thị Thanh Sương, sinh năm: 1996; Nơi thường trú: Tổ 60, khu phố 5, Phường 3, TP Đà Lạt, Lâm Đồng cầm: “Đề nghị cấp tín dụng kiêm hợp đồng tín dụng kiêm thỏa thuận dịch vụ điện tử” có số ED023339202 ngày 27/3/2022 đưa cho bị cáo. Lúc này, bị cáo ký tên “Nh” và ghi họ tên “Trần Thị Tuyết Nh” vào bên vay trên hợp đồng, nội dung: trả góp số tiền 16.800.000 đồng trong vòng 09 tháng để mua 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 ProMax. Sau khi ký hợp đồng, bị cáo trả trước số tiền 13.000.000 đồng cho ông Huỳnh Minh Thiên, sinh năm 2002; Nơi thường trú: Thôn Lộc Châu 1, Tân Nghĩa, Di Linh, Lâm Đồng là nhân viên cửa hàng Huy Mobile. Số tiền 16.800.000 đồng còn lại, Công ty tài chính TNHH H đã trả cho ông Hồ Nhật Huy, sinh năm: 1988; Nơi thường trú: 115 Phan Đình Phùng, Phường 1, TP Đà Lạt, Lâm Đồng là chủ cửa hàng Huy Mobile. Sau khi nhận đủ tiền ông Huỳnh Minh Thiên giao 01 điện thoại Iphone 13 Promax cho bị cáo. Sau đó, bị cáo quay lại quán cà phê và đưa lại cho Phượng 01 sim điện thoại, 01 điện thoại Iphone 13 Promax, số tiền 1.000.000 đồng còn thừa và hợp đồng vay tín dụng. Đến 18 giờ cùng ngày, bị cáo và Phượng cùng lên xe khách về thành phố Quảng Nam. Khoảng 9 giờ ngày 29/3/2022, Phượng hẹn bị cáo đến 01 quán cà phê tại đường Hùng Vương, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, tại đây Phượng đưa cho bị cáo số tiền 2.000.000 đồng để trả tiền công cho bị cáo đã giúp Phượng chiếm đoạt được chiếc điện thoại tại cửa hàng Huy Mobie. Quá trình điều tra, Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như trên * Đồ vật, tài liệu tạm giữ:

+ 01 “ĐỀ NGHỊ CẤP TÍN DỤNG KIÊM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG KIÊM THỎA THUẬN SỬ DỤNG DỊCH VỤ ĐIỆN TỬ” có số: ED023339202 ngày 27/03/2023 (bản chính).

+ 01 Bộ hồ sơ liên quan đến quy trình cho vay của công ty tài chính TNHH H (bản photo).

+ 01 Giấy ủy quyền của công ty tài chính TNHH H, người được ủy quyền ông Phạm Tiến H (bản chính).

* Bị hại: Công ty tài chính TNHH H, trụ sở chính: Tầng 8, 9, 10 Tòa nhà G, 24C P, Phường 6, Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Công ty yêu cầu được bồi thường số tiền 16.800.000 đồng Trong vụ án này, bị cáo Huỳnh Thị Ly V có hành vi sử dụng hình ảnh giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe mang tên bà Trần Thị Tuyết Nh để ký kết hợp đồng vay tín dụng với Công ty tài chính TNHH H. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt không thu giữ được bản chính các giấy tờ trên, nên không thực hiện được việc trưng cầu giám định, chưa làm việc được với người phụ nữ tên Phượng là người đã gửi hình ảnh chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe cho bị cáo. Do đó, chưa đủ căn cứ khởi tố bị cáo Huỳnh Thị Ly V về tội: Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức, theo quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Đối với đối tượng tên Phượng là người chủ mưu nhưng hiện nay chưa xác minh được nhân thân lai lịch. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt sẽ tiếp tục xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 77/CT- VKSĐL ngày 29/01/2024 của Vện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Huỳnh Thị Ly V về tội: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo bị cáo Huỳnh Thị Ly V khai nhận bị cáo đã có tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích. Ngày 27/3/2022, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối sử dụng thông tin cá nhân của người khác, tự nhận bản thân là Trần Thị Tuyết Nh để ký hợp đồng vay tiền với Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn H, nhằm chiếm đoạt số tiền 16.800.000 đồng (mười sáu triệu tám trăm ngàn đồng).

Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên Tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và không có gì thay đổi, Vì vậy: Hành vi của bị cáo V có đủ yếu tố cấu thành tội “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Do đó đại diện Vện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

- Áp dụng: Điểm d khoản 2 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thị Ly V 03 (ba) năm tù đến 04 năm tù Áp dụng điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt bản án số 73/2023/HSST ngày 22/3/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Buộc bị cáo bồi thường số tiền 16.800.000đồng Xung công 1.500.000đồng (thu lợi bất chính) Vật chứng xử lý theo quy định.

Trong vụ án này, bị cáo Huỳnh Thị Ly V có hành vi sử dụng hình ảnh giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe mang tên bà Trần Thị Tuyết Nh để ký kết hợp đồng vay tín dụng với Công ty tài chính TNHH H. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt không thu giữ được bản chính các giấy tờ trên, nên không thực hiện được việc trưng cầu giám định, chưa làm việc được với người phụ nữ tên Phượng là người đã gửi hình ảnh chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe cho bị cáo. Do đó, chưa đủ căn cứ khởi tố bị cáo Huỳnh Thị Ly V về tội: Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức, theo quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Đối với đối tượng tên Phượng là người chủ mưu nhưng hiện nay chưa xác minh được nhân thân lai lịch. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt sẽ tiếp tục xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận gì với Đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố mà chỉ xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình. Vì vậy viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đã truy tố cũng như mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Quá trình điều tra và cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận: Bị cáo đã có 02 tiền án về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chưa được xóa án tích. Vào ngày 27/3/2022, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối sử dụng thông tin cá nhân của người khác, tự nhận bản thân là Trần Thị Tuyết Nh để ký hợp đồng vay tiền với Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn H, nhằm chiếm đoạt số tiền 16.800.000 đồng (mười sáu triệu tám trăm ngàn đồng) là phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó Vện kiểm sát nhân dân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Huỳnh Thị Ly V, phạm vào tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015;

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là đối tượng đang có tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Sau khi chấp hành xong bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân, tìm kiếm cho mình một công việc có ích cho xã hội, gia đình. Để có tiền tiêu xài cho bản thân, vào ngày 27/3/2022, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối sử dụng thông tin cá nhân của người khác, tự nhận bản thân là Trần Thị Tuyết Nh để ký hợp đồng vay tiền với Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn H, nhằm chiếm đoạt số tiền 16.800.000 đồng (mười sáu triệu tám trăm ngàn đồng). Bản thân bị cáo đã bị xử phạt về hành vi lừa đảo, bị cáo đã trưởng thành, có nhận thức thức đầy đủ biết rõ hành vi lừa người khác là vi phạm pháp nhưng bị cáo vẫn thực hiện chỉ vì tư lợi riêng, thỏa mãn nhu cầu ăn chơi của bị cáo. Hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà được pháp luật bảo vệ, hành vi của bị cáo đã làm mất tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần có mức án nghiên khắc đối với bị cáo mới có tính giao dục riêng và phòng ngừa chung, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian nhất định.

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của bị cáo thì nhận thấy: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Xong xét thấy bị cáo đã có tiến án chưa được xoá án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp tái nguy hiểm nên áp dụng cho bị cáo điểm d, khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự là tình tiết tăng nặng tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Tại phiên Toà người bị hại là Công Ty Tài chính TNHH H (H) yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 16.800.000đồng, bị cáo đồng ý nên chấp nhận người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà và trong quá trình điều tra cũng không yêu cầu gì.

Tại phiên Toà hôm nay bị cáo thừa nhận có nhận 1.500.000đồng là tiền của Phượng trả công cho bị cáo. Xét thấy đây là tiền thu lợi bất chính nên tịch thu sung công.

Trong vụ án này, bị cáo Huỳnh Thị Ly V có hành vi sử dụng hình ảnh giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe mang tên bà Trần Thị Tuyết Nh để ký kết hợp đồng vay tín dụng với Công ty tài chính TNHH H. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt không thu giữ được bản chính các giấy tờ trên, nên không thực hiện được việc trưng cầu giám định, chưa làm việc được với người phụ nữ tên Phượng là người đã gửi hình ảnh chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe cho bị cáo. Do đó, chưa đủ căn cứ khởi tố bị cáo Huỳnh Thị Ly V về tội: Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức, theo quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Đối với đối tượng tên Phượng là người chủ mưu nhưng hiện nay chưa xác minh được nhân thân lai lịch. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt sẽ tiếp tục xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

[5] Về xử lý vật chứng: Theo quy định pháp luật.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thị Ly V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thị Ly V 04 năm tù.

Áp dụng điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015. Tổng hợp hình phạt của bản án số 73/2023/HS- ST ngày 22/3/2023 của Toà án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế là 03 năm 06 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành chung cả hai bản án là 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2022.

Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, 585,589 Bộ luật Dân sự năm 2015 Buộc bị cáo bồi thường cho Công Ty Tài chính TNHH H (H) số tiền 16.800.000đồng (Mười sáu triệu, tám trăm ngàn đồng ) Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường hợp Cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất các các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Điều 47 Bộ luật hình sự.

Lưu hồ sơ: 01(một) “ĐỀ NGHỊ CẤP TÍN DỤNG KIÊM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG KIÊM THỎA THUẬN SỬ DỤNG DỊCH VỤ ĐIỆN TỬ” có số: ED023339202 ngày 27/03/2023 (bản chính).

+ 01 Bộ hồ sơ liên quan đến quy trình cho vay của công ty tài chính TNHH H (bản photo).

+ 01 Giấy ủy quyền của công ty tài chính TNHH H, người được ủy quyền ông Phạm Tiến H (bản chính).

+ Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 1.500.000 đồng để sung công.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 840.000đồng (Tám trăm bốn mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án (hoặc) niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 91/2024/HS-ST

Số hiệu:91/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về