Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 90/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 90/2024/HS-PT NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 918/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Lê Thế BC. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

- Bị cáo kháng cáo:

Lê Thế BC, sinh năm 1979 tại tỉnh Bến Tre; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Phú Long, xã Phú Thuận, huyện B, tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp L2, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: tài xế; trình độ học vấn: lớp 9/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thế D và bà Lê Thị Kim T; vợ: Đinh Thị Huyền A, sinh năm 1979; con: có 02 người con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 08/12/2022 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phùng Thị H là Luật sư - Công ty luật trách nhiệm hữu hạn A+ thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Tấn BH, sinh năm 1994; nơi cư trú: ấp T, xã C, huyện B, tỉnh Bến Tre (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Trương Văn T – Văn phòng Luật sư Trương Văn T thuộc đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Quang V, sinh năm 1947; nơi thường trú: HW, AUSTRALIA;

nơi tạm trú: ấp L2, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre (có mặt).

Đại diện theo ủy quyền: Bà Trương Thị Hoàng D, sinh năm 1969 (có mặt). Địa chỉ: T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.

2. Bà Đinh Thị Huyền A, sinh năm 1979; nơi cư trú: Số A, đường Â, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)..

3. Ông Nguyễn Thanh X, sinh năm 1987; nơi cư trú: ấp B3, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

4. Bà Võ Thị N, sinh năm 1970; nơi cư trú: ấp H, xã C, huyện B, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

5. Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1987; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

6. Ông Tống Nguyễn Bảo V, sinh năm 1986; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

7. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1983; nơi cư trú: ấp G, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào năm 2017, ông Lê Quang V có Quốc tịch Úc, là cậu ruột của Lê Thế BC chuyển tiền vào tài khoản của D số tiền 3.286.000.000 đồng, chuyển tiền vào tài khoản của chị Đinh Thị Huyền A (vợ D) số tiền 1.500.000.000 đồng nhờ D mua đất, xây nhà, đồng thời nhờ D làm thủ tục mua bán và đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giùm ông V vì ông V không có Quốc tịch Việt Nam nên không thể đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được. Sau đó, D tìm đất, làm thủ tục mua bán với ông Nguyễn Thanh V và anh Nguyễn Thanh P. Ngày 03-8-2017, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CI 984727, thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại ấp L2, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre mang tên Lê Thế BC. Đến năm 2018, D thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do vợ chồng D đứng tên tại xã Phú Thuận, huyện B, tỉnh Bến Tre và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 984727 tại Phòng giao dịch Châu Hưng thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện B, tỉnh Bến Tre vay số tiền 800.000.000 đồng. Khi ông V về nước biết được việc D thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 984727 để vay tiền nên yêu cầu D và Đinh Thị Huyền A (vợ D) đến Ủy ban nhân dân xã L, huyện B ký “Tờ khai danh dự” với nội dung có nhận tiền của vợ chồng ông V và nhờ vợ chồng D mua đất, xây nhà tại ấp L2, xã L, huyện B; vợ chồng D không được quyền bán, cầm cố, sang nhượng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngày 17-12-2018, D đến Phòng giao dịch Châu Hưng trả tiền vay, D ký tên nhận lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 984727. Sau đó, ông V mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 984727 về Úc cất giữ. Ngày 02-10- 2019, ông V gửi thông báo đến Ủy ban nhân dân xã L, huyện B là đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 169 tại Úc, yêu cầu Ủy ban nhân dân xã L không làm thủ tục liên quan đến thửa đất này do đây là tài sản của ông V.

Đến cuối năm 2019, do cần tiền kinh doanh nhưng không có tài sản để thế chấp vay tiền, D nhờ ông Trần Châu Kỳ liên hệ với Ủy ban nhân dân xã L để làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 169. Ông Kỳ đến gặp ông Nguyễn Thanh Tâm - Cán bộ địa chính Ủy ban nhân dân xã L hỏi thì ông Tâm trả lời không làm được thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất này do vợ chồng D đã đến Ủy ban nhân dân xã L ký vào “Tờ khai danh dự” xác định thửa đất 169 là tài sản của ông Lê Quang V, vợ chồng D không được sang nhượng, mua bán hay cầm cố thửa đất này và ông V cũng đã đến Ủy ban nhân dân xã L yêu cầu Ủy ban nhân dân xã không làm thủ tục gì liên quan đến thửa đất số 169 do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 169 do ông V cất giữ. Ông Kỳ đã nói lại nội dung này cho D biết.

Sau đó, D nói với ông Nguyễn Tống Bảo V là muốn làm lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhanh. Trong lần uống cà phê tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông BV nói việc D cần làm giấy đất nhanh thì trong đó có người thường gọi là “Anh Ba” nói là có biết người làm giấy tờ bất động sản nhanh, ông BV xin số điện thoại của người này rồi gửi cho D. Sau đó, D liên hệ thì người này giới thiệu tên H. D nói với H là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất cần làm lại, H đồng ý làm. Sau khi được H yêu cầu, D đã cung cấp cho H 01 bản phôtô Giấy chứng nhận quyền sử đất số CI 984727, 01 bản phôtô sổ hộ khẩu, 01 bản phôtô giấy chứng minh nhân dân cùng mang tên Lê Thế BC. Khoảng 01 tháng sau, H đến nhà D giao cho D 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CI 984727, thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4 m2 tại xã L, huyện B mang tên Lê Thế BC, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 03-8-2017 và D trả cho H số tiền 5.000.000 đồng.

Sau khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất nêu trên, D nhờ T (không rõ họ tên, địa chỉ) tìm người cho vay tiền, T liên hệ với ông Nguyễn Văn T. Sau đó, ông Thảo tìm và liên hệ với ông Nguyễn Tấn BH đồng ý cho vay tiền, lãi suất 4%/tháng được thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dưới hình thức ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 30-9-2020, Lê Thế BC và bà Đinh Thị Huyền A đến Văn phòng Công chứng Bình Đại ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Tấn BH, với nội dung Lê Thế BC và Đinh Thị Huyền A chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại xã L, huyện B do Lê Thế BC đứng tên sử dụng cho ông Nguyễn Tấn BH, giá 50.000.000 đồng. Thực tế Hợp đồng chuyển nhượng này là thỏa thuận việc Lê Thế BC thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất do H làm cho D để vay tiền của ông K, hai bên không có thỏa thuận số tiền vay cụ thể mà khi nào cần vay tiền thì D liên hệ ông K cho vay trên cơ sở đã thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, khi nào D không trả tiền lãi quá 02 tháng thì ông K được sang tên thửa đất. Sau khi ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, D đưa cho ông K giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất do H làm cho D. Từ ngày 01-10- 2020 đến ngày 10-3-2022, ông K cho D vay tổng cộng là 28 lần với tổng số tiền là 5.849.000.000 đồng. Tiền vay ông K đưa trực tiếp cho D hoặc chuyển khoản vào tài khoản của D và bà Huyền A. Từ tháng 01/2022, do D không trả lãi theo thoả thuận, ngày 04-4-2022, ông K mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất mà D đưa cho ông K để thế chấp vay tiền đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B làm thủ tục sang tên thì bị phát hiện nghi là giả. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B lập biên bản làm việc với ông K và tạm giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất này và chuyển đến Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Sau đó, ông K làm đơn tố giác D có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Vật chứng, đồ vật, tài liệu tạm giữ, gồm:

- Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B giao nộp cho Cơ quan điều tra: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CI 984727, thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại xã L, huyện B mang tên Lê Thế BC do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 03-8-2017. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này có đặc điểm: độ dày, màu sắc nhạt, kích thước nhỏ hơn phôi Giấy chứng nhận thật, dấu nổi ở vị trí số phát hành có kích thước khác biệt…, phôi giấy chứng nhận không đính kèm trang bổ sung.

- Ông Nguyễn Tấn BH nộp: 01 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30-9-2020 đối với thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại xã L, huyện B do Lê Thế BC đứng tên; 08 giấy biên nhận giao nhận tiền vay giữa Lê Thế BC và ông Nguyễn Tấn BH.

- Ông Lê Quang V nộp: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CI 984727, thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại xã L, huyện B mang tên Lê Thế BC do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 03-8-2017.

- Tiền Việt Nam: 10.000.000 đồng; 02 chiếc nhẫn bạc (thu giữ khi khám xét).

* Tại Bản kết luận giám định số: 295/2022/KL-KTHS ngày 08-7-2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bến Tre, kết luận:

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cần giám định (ký hiệu A1) do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đai huyện B tạm giữ từ ông Nguyễn Tấn BH:

+ Phôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cầm giám định (ký hiệu A1) nêu tại mục II.1 là giả, được làm giả bằng phương pháp in phun màu.

+ Hình dấu tròn, màu đỏ có nội dung “SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TỈNH BẾN TRE” trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cần giám định (ký hiệu A1) nêu tại mục II.1 so với hình dấu tròn, màu đỏ có cùng nội dung trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M2, M3, M4) nêu tại mục II.2 không phải do cùng một con dấu đóng ra, được làm giả bằng phương pháp tạo ra con dấu giả.

+ Chữ ký mang tên Trần Quang M dưới mục “Phó Giám đốc” trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cần giám định (ký hiệu A1) nêu tại mục II.1 so với chữ ký của Trần Quang M - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M2, M3, M4) nêu tại mục II.2 không phải do cùng một người ký ra.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cần giám định (ký hiệu A2) do ông Lê Quang V giao nộp:

+ Phôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cần giám định (ký hiệu A2) nêu tại mục II.1 là thật.

+ Hình dấu tròn, màu đỏ có nội dung “SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TỈNH BẾN TRE” trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cần giám định (ký hiệu A2) nêu tại mục II.1 so với hình dấu tròn, màu đỏ có cùng nội dung trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M2, M3, M4) nêu tại mục II.2 do cùng một con dấu đóng ra.

+ Chữ ký mang tên Trần Quang M dưới mục “Phó Giám đốc” trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số CI 984727 cần giám định (ký hiệu A2) nêu tại mục II.1 so với chữ ký của Trần Quang M - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M2, M3, M4) nêu tại mục II.2 do cùng một người ký ra.

Quá trình điều tra, Lê Thế BC không thừa nhận có ý thức chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Tấn BH từ trước, không biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất do đối tượng tên H làm cho D là giả. Nhưng với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở khẳng định D thuê người làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, sau đó thế chấp cho ông K vay tiền rồi chiếm đoạt tiền của ông K.

Tại Bản cáo trạng số: 55/CT-VKS-P1 ngày 30/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre truy tố bị cáo Lê Thế BC về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Thế BC phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

[1] Về trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thế BC 16 (mười sáu) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thế BC 03 (ba) năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Lê Thế BC phải chấp hành hình phạt chung của cả 02 tội là 19 (mười chín) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/10/2023, bị cáo Lê Thế BC có đơn kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Thế BC không thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu, cho rằng bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” vì thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại xã L, huyện B là của ông Lê Quang V tặng cho bị cáo, sau đó do ông V tự ý lấy bản chính giấy chứng nhận mang về Úc nên bị cáo mới làm lại giấy chứng nhận nhưng không biết giấy chứng nhận do H đưa là giả, bị cáo vay tiền có thế chấp bằng tài sản của bị cáo nên chỉ là giao dịch dân sự chứ bị cáo không có ý thức chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Tấn BH từ trước.

Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Phùng Thị H phát biểu ý kiến: Về tố tụng, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử, có 02 Hội thẩm nhân dân là Lê Thiên T và Võ Công L không phải là Hội thẩm dự khuyết nhưng vẫn tham gia Hội đổng xét xử sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Về nội dung, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định năm 2017 ông V cho bị cáo D một phần tiền để vợ chồng bị cáo mua đất xây nhà ra riêng, điều kiện được cho tiền là vợ chồng bị cáo D phải vào đạo công giáo và nhận ông V là cha đỡ đầu. Điều này thể hiện qua nội dung 02 lần chuyển khoản của ông V cho bị cáo D, cụ thể: lần chuyển khoản đầu tiên ông V ghi nội dung là “chuyển tiền giúp cháu mua đất xây nhà”; lần thứ 2 ghi nội dung là “bố Lê Quang V chuyển tiền cho cháu giúp xây nhà”. Ngoài ra, việc cho nhà đất này được công khai, những người trong dòng họ của bị cáo đều biết và đã có lời khai xác nhận trong vụ án. Lời khai ban đầu của bị cáo và người thân của bị cáo đều xác định nhà đất là của bị cáo nhưng đến tháng 7/2022 thì đồng loạt thay đổi lời khai là nhà của ông V, lý do là ông V nói với mẹ bị cáo là cơ quan điều tra đang điều tra ông V về việc trộm giấy chứng nhận của D nên bà Thu nói với D khai nhà, đất của ông V để ông V không bị truy cứu nên việc thay đổi lời khai này là không có cơ sở.

Từ việc ông V cho tiền bị cáo mới kéo theo các hành vi tiếp theo của bị cáo như mua đất thửa 169, cất nhà, nhưng do tiền ông V cho không đủ xây nhà nên bị cáo đã thế chấp thửa đất 169 để vay 800 triệu từ Ngân hàng Agribank, bán 02 thửa đất tại xã Phú Thuận để bù vào. Sau đó, ông V thấy được căn nhà có giá trị nên đổi ý yêu cầu bị cáo ký tờ khai danh dự ngày 15/6/2018. Tờ khai này về hình thức và nội dung đều không đúng sự thật khách quan và việc Ủy ban nhân dân xã L xác nhận nội dung tờ khai này cũng trái pháp luật.

Khi tất toán khoản vay 800 triệu thì ông V tự ý đến ngân hàng lấy bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và mang về Úc cất giữ. Do tức giận vì bị cáo là chủ tài sản nhưng ông V lại lấy mất giấy chứng nhận nên thông qua giới thiệu của bạn là Tống Nguyễn Bảo V, bị cáo gặp H nhờ làm lại giấy chứng nhận. Bị cáo không biết và không thể biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do H đưa là giả, thể hiện qua việc sau khi có giấy chứng nhận bị cáo đã làm thủ tục vay tại Ngân hàng Sacombank nhưng do có nợ xấu nên không vay được, nếu biết là giấy giả thì bị cáo đã không làm thủ tục vay tại ngân hàng. Mặt khác, trước khi bị cáo vay của ông K, bị cáo cũng đưa giấy chứng nhận cho ông K mang đến xã và công chứng kiểm tra, những cơ quan này cũng không thể phát hiện ra sổ giả thì bị cáo càng không thể biết đây là sổ giả. Khi biết giấy chứng nhận là giả thì bị cáo đã ngay lập tức làm đơn tố cáo H, cho thấy bi cáo cũng chỉ là nạn nhân bị H lừa. Bị cáo vay có thế chấp bằng tài sản đứng tên của bị cáo và giá trị của tài sản bảo đảm cao hơn rất nhiều so với số tiền vay nên hành vi của bị cáo không thể là hành vi lừa đảo.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.

Bị hại là ông Nguyễn Tấn BH không đồng ý kháng cáo của bị cáo, yêu cầu Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là Luật sư Trương Văn T phát biểu ý kiến: Khi ông K phát hiện giấy chứng nhận do bị cáo thế chấp giả, ông K đã liên hệ bị cáo D thì bị cáo D đồng ý trong vòng 18 ngày sẽ trả tiền, hoặc sẽ cấn 02 thửa đất của mẹ bị cáo để trừ nợ nhưng sau đó lại đổi ý không trả nợ. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng pháp luật. Diễn biến phiên tòa phúc thẩm thể hiện không có tình tiết nào mới so với cấp sơ thẩm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lê Quang V (có bà Trương Thị Hoàng D đại diện theo ủy quyền) yêu cầu Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đinh Thị Huyền A yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Xét kháng cáo của bị cáo về tố tụng, việc thay đổi Hội thẩm nhân dân đã được thể hiện tại biên bản phiên tòa sơ thẩm, Chủ tọa phiên tòa đã công bố cho người tham gia tố tụng biết thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và không ai có ý kiến gì nên đây không phải là vi phạm tố tụng. Về nội dung, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo kêu oan cho rằng không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tuy nhiên, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, có cơ sở xác định dù bị cáo biết bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã đưa cho ông V giữ nhưng bị cáo vẫn nhờ người khác làm giả giấy chứng nhận để thế chấp vay tiền ông K nhằm chiếm đoạt nên bản án của Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo kêu oan nhưng không xuất trình được tình tiết nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người bào chữa cho bị cáo cho rằng thành phần Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không đúng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm ngày 29/9/2023, tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa đã giới thiệu thành phần Hội đồng xét xử và hỏi những người tham gia tố tụng có ý kiến hay yêu cầu thay đổi thành viên Hội đồng xét xử hay không nhưng không ai có ý kiến và yêu cầu gì (BL 1796). Như vậy, những người tham gia tố tụng đã đồng ý để Hội đồng xét xử sơ thẩm tiến hành xét xử. Do đó, ý kiến của người bào chữa cho bị cáo là không có căn cứ chấp nhận.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thế BC thừa nhận có thực hiện hành vi như bản án sơ thẩm đã nêu nhưng cho rằng bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định, và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[2.1] Xuất phát từ nhu cầu vay tiền để sử dụng mục đích cá nhân nhưng không có giấy tờ, tài sản để thế chấp vay tiền nên vào năm 2020, bị cáo Lê Thế BC đã cung cấp cho đối tượng tên H (không rõ họ tên, địa chỉ) bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại ấp L2, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre cùng mang tên Lê Thế BC để đối tượng tên H làm giả 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CI 984727, thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 toạ lạc tại ấp L2, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre mang tên Lê Thế BC do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 03/8/2017, sau đó, bị cáo D cùng vợ là bà Đinh Thị Huyền A sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất giả nêu trên thế chấp vay tiền của ông Nguyễn Tấn BH dưới hình thức Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có công chứng tại Văn phòng công chứng Bình Đại với tổng số tiền 5.849.000.000 đồn để bị cáo chiếm đoạt.

[2.2] Bị cáo D cho rằng bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” do thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại xã L, huyện B là của ông Lê Quang V tặng cho bị cáo; bị cáo không có ý thức chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Tấn BH từ trước, không biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất do đối tượng tên H làm cho bị cáo là giả.

Xét thấy, lời khai ban đầu của bị cáo, vợ bị cáo là bà Đinh Thị Huyền A, mẹ bị cáo là bà Lê Thị Kim T, cha bị cáo là Lê Văn D đều phù hợp nhau và phù hợp với lời khai của ông Lê Quang V, phù hợp với nội dung cuốn vở ghi chép của vợ bị cáo về việc giữ tài sản giùm cho ông V (BL 139, 153, 706, 710, 319, 330, 815, 819, 1406, 1519) thể hiện thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2, địa chỉ xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre mang tên Lê Thế BC là tài sản của ông Lê Quang V do ông V gửi tiền nhờ bị cáo nhận chuyển nhượng và xây nhà, bị cáo D chỉ là người đứng tên giùm trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Tại “Tờ khai danh dự” có chữ ký của bị cáo và vợ bị cáo là bà Đinh Thị Huyền A, được Ủy ban nhân dân xã L, huyện B chứng thực vào ngày 15/6/2018, vợ chồng bị cáo xác định: “Vợ chồng chúng tôi tên Lê Thế BC và Đinh Thị Huyền A có nhận số tiền mặt là 6.028.446.000 đồng do cậu mợ tôi là ông Lê Quang V và bà Ong Thị Mỹ D nhờ chúng tôi mua đất xây ngôi nhà tại ấp L2, xã L, huyện B để sau này cậu mợ tôi về hưu sống an hưởng tuổi già. Ngoài ra số tiền này cũng sử dụng vào việc mua 02 xe du lịch 07 chỗ hiệu TOYATA FORTUNER mang biển số 51F - X và xe du lịch 16 chỗ hiệu FORD TRANSIT mang biển số 51B - X để vợ chồng tôi kinh doanh kiếm lời sinh sống với điều kiện vợ chồng chúng tôi chuyển khoản vào tài khoản Ngân hàng AGRIBANK của cậu mợ tôi số 710951X116 đúng định kỳ vào ngày 15 mỗi tháng. Ghi chú; chúng tôi và 02 con là Lê Nhật T và Lê Phương M được tạm thời sinh sống, giữ gìn và tu bổ ngôi nhà này luôn sạch sẽ, gọn gàng như lúc mới xây; nếu như sau này vợ chồng chúng tôi ly dị, vợ chồng chúng tôi bắt buộc phải rời khỏi ngôi nhà này ngay tức khắc và không được quyền khiếu nại bất cứ điều kiện nào; sau này tùy theo sự phán xét của cậu mợ chúng tôi sẽ làm di chúc cho con cháu thích hợp để thừa hưởng di sản này và giữ gìn từ đời này sang đời khác; chúng tôi tuyệt đối không được quyền bán hay cầm cố 02 chiếc xe trên, ngôi nhà hay sang nhượng trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu chúng tôi cố tình lừa gạt, gian lận xảo trá và làm sai những điều khoản trên”.

Mặt khác, Tờ giấy viết tay đề ngày 02/10/2019 của ông V cùng bà Ong Thị Mỹ D gởi Ủy ban nhân dân xã L có nội dung: “Trong Tờ khai danh dự giữa vợ chồng chúng tôi với cháu tôi là Lê Thế BC và vợ là Đinh Thị Huyền A vào ngày 15/6/2018. Vợ chồng chúng tôi đã bỏ ra số tiền 6.028.446.000 đồng Việt Nam để nhờ D xây hộ ngôi nhà tại ấp L2, xã L với một trong những điều kiện D không được quyền bán hay sang nhượng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Do đó, chúng tôi đang giữ quyển sổ đỏ này tại Úc. Kính xin Ủy ban đình chỉ cấp sổ đỏ mới cho Lê Thế BC do lời khai không đúng sự thật”. Sau đó, ông V đã giữ giấy chứng nhận bản chính và mang về Úc cất giữ. Như vậy, nếu thật sự có giao dịch tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông V với bị cáo thì sau đó đã không có Tờ khai danh dự” của vợ chồng bị cáo và Tờ giấy viết tay đề ngày 02/10/2019 của vợ chồng ông V nêu trên và cũng không có việc ông V giữ bản chính giấy chứng nhận mà không giao cho bị cáo. Do đó, việc bị cáo cho rằng, ông V đã tặng cho bị cáo quyền sử dụng thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2 tại xã L, huyện B là không có cơ sở.

Căn cứ lời khai của ông Trần Châu Kỳ thể hiện: Vào khoảng năm 2020, Lê Thế BC có nhờ ông Kỳ làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do D đứng tên tại ấp L2, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre vì D làm mất giấy chứng nhận, D đưa cho ông Kỳ 01 đơn cớ mất yêu cầu ông Kỳ đến Ủy ban nhân dân xã L để làm thủ tục, ông Kỳ đem đơn cớ mất đến Ủy ban nhân dân xã gặp ông Nguyễn Thanh Tâm là địa chính xã và trình bày nội dung D yêu cầu làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại ấp L2, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre do D đứng tên, thì ông Tâm trả lời là không làm được thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này do ông cậu của D đã đến xã yêu cầu Ủy ban xã không làm thủ tục gì liên quan đến thửa đất tại ấp L2, xã L do D đứng tên, do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này ông cậu của D đang giữ; ông Kỳ đã thông tin lại cho bị cáo biết sự việc này (BL 522 - 523). Lời khai này của ông Kỳ phù hợp với khai nhận của ông Nguyễn Thanh Tâm (BL số 483, 484) và lời khai của bị cáo (BL 150, 151). Tại cơ quan điều tra, bị cáo cũng xác định bị cáo đã biết ông V giữ bản chính giấy chứng nhận và mang về Úc cất giữ nhưng do cần tài sản để vay tiền nên bị cáo làm giấy chứng nhận khác để thế chấp (BL 137, 139, 155, 157, 160, 1808).

Như vậy, có căn cứ xác định, mặc dù bị cáo đã biết rõ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 169, tờ bản đồ số 22 do ông V cất giữ và tài sản này cũng không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, biết việc làm lại giấy chứng nhận nêu trên không thể thực hiện được do ông V đã có đơn ngăn chặn đến Ủy ban xã nhưng bị cáo vẫn cung cấp thông tin cho đối tượng H làm giấy chứng nhận. Trước đó bị cáo đã từng 03 lần làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ cấp các giấy chứng nhận này thể hiện bị cáo có ký các đơn đăng ký, các tài liệu khác và trực tiếp đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai để nhận bản chính giấy chứng nhận (BL 167, 1127-1153), nên bị cáo phải biết thủ tục, quy trình cấp giấy chứng nhận cần phải có chữ ký của bị cáo và thủ tục nhận giấy chứng nhận phải do bị cáo trực tiếp nhận, tuy nhiên bị cáo khai nhận bị cáo không ủy quyền cho H, không có ký tên vào tài liệu, giấy tờ gì khi đối tượng H làm lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bản chính giấy chứng nhận cũng do H mang đến nhà giao cho bị cáo chứ bị cáo không trực tiếp nhận từ cơ quan nhà nước (BL 167, 168, 200); hơn nữa, thời điểm bị cáo nhờ H làm lại giấy chứng nhận là năm 2019 nhưng giấy chứng nhận do H đưa lại ghi ngày cấp là năm 2017, bị cáo thừa nhận khi nhận giấy chứng nhận do H đưa, bị cáo có kiểm tra thì thấy giống thông tin giấy chứng nhận ông V đang giữ, kể cả ngày cấp, trong khi bị cáo biết một thửa đất chỉ được cấp 01 giấy chứng nhận (BL 211, 1810) nhưng bị cáo không có chút nghi ngờ gì là không phù hợp với thực tế khách quan. Như vậy, có căn cứ xác định, bị cáo biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CI 984727, thửa đất số 169, tờ bản đồ số 22, diện tích 1.200,4m2, địa chỉ xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre mang tên Lê Thế BC do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 03/8/2017 do đối tượng tên H giao cho bị cáo là giả, nếu sử dụng để thế chấp vay tiền của ông K sẽ không bảo đảm được quyền xử lý tài sản thu hồi tiền cho vay của ông K khi xảy ra trường hợp bị cáo không trả được tiền vay. Tuy nhiên, bị cáo vẫn đem giấy chứng nhận giả này thế chấp và đưa ra thông tin gian dối là tài sản này của bị cáo, làm cho ông K tin tưởng để cho bị cáo vay tiền, qua đó chiếm đoạt.

[2.3] Do đó, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Thế BC phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo.

[3.1] Như phân tích tại mục [2.2] và [2.3], kháng cáo kêu oan của bị cáo D là không có cơ sở chấp nhận.

[3.2] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý hành chính, lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà còn gây hoang mang trong nhân dân, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3.3] Khi lượng hình, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo có 01 tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; bị cáo giao nộp số tiền 10.000.000 đồng và 02 chiếc nhẫn bằng kim loại để bồi thường thiệt hại (số tiền bồi thường là không đáng kể so với số tiền chiếm đoạt); gia đình bị cáo có người thân có công với nước; bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đồng thời, xem xét việc bị cáo cùng lúc phạm nhiều tội, trong đó có tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, từ đó xử phạt bị cáo 16 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tổng hợp hình phạt chung của cả 02 tội là 19 năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiêm cho xã hội do hành vi của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thể hiện thái độ không thành khẩn, quanh co chối tội nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo cũng như đề nghị của người bào chữa, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Lê Thế BC phải chịu theo quy định pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thế BC. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

Tuyên xử:

[1] Tuyên bố bị cáo Lê Thế BC phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thế BC 16 (mười sáu) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thế BC 03 (ba) năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Lê Thế BC phải chấp hành hình phạt chung của cả 02 tội là 19 (mười chín) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2022.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Thế BC để đảm bảo thi hành án.

[2] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Lê Thế BC phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 90/2024/HS-PT

Số hiệu:90/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về