Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 87/2023/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 87/2023/HSST NGÀY 09/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 8 năm 2023 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 76/2023/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Văn N, sinh ngày 10/10/1964 tại tỉnh bến Tre; Tên gọi khác: không có; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: xx ấp AT, xã M, thành phố BT, tỉnh BT; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C (đã chết) và bà Trần Thị T (đã chết); Bị cáo có vợ và 01 người con.

Tiền sự: Không Tiền án: 06 +Ngày 04/12/2002 tại Bản án số 45/HSST bị TAND thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

+Ngày 10/6/2004 tại Bản án số 52/HSPT bị TAND tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm xử phạt 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt Bản án số 45/HSST ngày 04/12/2002 của thị xã Bến Tre còn lại 06 tháng, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 30 tháng tù.

+Ngày 19/10/2004 tại Bản án số 93/HSST bị TAND thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xử phạt 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo chấp hành xong ngày 07/10/2007.

+Ngày 20/12/2008 tại Bản án số 125/HSST bị TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An xử phạt 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 139 BLHS năm 1999.

+Ngày 08/4/2009 tại Bản án số 27/HSST bị TAND thị xã Tân An, tỉnh Long An xử phạt 05 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b, c khoản 2 Điều 139 BLHS. Tổng hợp hình phạt với Bản án số 125/HSST của TAND huyện Bến Lức, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 07 năm tù. Chấp hành xong ngày 10/02/2015.

+Ngày 09/6/2017 tại Bản án số 19/HSST bị TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xử phạt 05 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b, c khoản 2 Điều 139 BLHS năm 1999 (phạm tội ngày 29/12/2016). Chấp hành xong ngày 06/02/2022.

Nhân thân:

+Ngày 03/7/1987 tại Bản án số 22/HSST bị TAND thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre xử phạt 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân” +Ngày 10/8/1996 tại Bản án số 48/HSST bị TAND thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” -Ngày 16/6/2023 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre khởi tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trong 01 vụ án khác.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 13/3/2023, tạm giam từ ngày 22/3/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

1/ Hồ Thị L, sinh năm 1967. Vắng mặt Địa chỉ: số xx đường N, Phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

2/ Phan Thị T, sinh năm: 1985. Xin vắng mặt Địa chỉ: số xx NH, Phường 8, thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang.

* Người có quyền lợi, N vụ liên quan:

1/ Nguyễn Thị Hồng S, sinh năm: 1980. Vắng mặt Địa chỉ: số xx khu phố 3, phường A, thành phố bến Tre, tỉnh Bến Tre.

2/ Nguyễn Thị T, sinh năm: 1968. Có mặt Địa chỉ: xx ấp AT, xã M, thành phố BT, tỉnh BT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, vào ngày 09/02/2023 và ngày 07/3/2023 Trần Văn N đã thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Mỹ Tho, tỉnh tiền Giang, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 09/02/2023, N điều khiển xe mô tô hiệu Wave Alpha màu xanh, biển số 71B2-868.43 từ thành phố Bến Tre, tỉnh Bến tre đến thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi đi đến cửa hàng cầm đồ “Thành Biển” tại Phường 3, thành phố Mỹ Tho do bà Hồ Thị L làm chủ, N dựng xe và đi vào hỏi mua 20 thẻ card Vinaphone, 20 thẻ card Viettel, 20 thẻ card Mobifone mỗi loại mệnh giá 200.000 đồng. Do không đủ số lượng, N kêu bà L đi mua về bán lại, N qua cửa hàng vật liệu “Thanh Mai” cạnh bên đợi. Sau khi mua về đủ số lượng, bà L qua trước cửa hàng vật liệu “Thanh Mai” giao thì N yêu cầu mua thêm 05 thẻ card điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng nữa đem qua sẽ thanh toán tiền luôn. Tưởng thật, bà L đưa hết 60 card điện thoại cho N rồi đi về cửa hàng lấy card thì N lên xe bỏ chạy. Sau đó N đem 60 thẻ card điện thoại trên đến tiệm điện thoại “Anh Thư” ở thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre bán lại cho chị Nguyễn Thị Hồng S với giá 10.800.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết. Sau khi bà L về cửa hàng lấy thẻ card quay lại thì không thấy N, biết bị lừa nên bà L đến Công an Phường 3 trình báo sự việc.

Bản kết luật định giá số 264 ngày 28/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Mỹ Tho kết luận: 20 thẻ card Vinaphone, 20 thẻ card Viettel, 20 thẻ card Mobiphone, mỗi thẻ mệnh giá 200.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 11.512.000 đồng.

Vụ thứ hai: Cũng với thủ đoạn tương tự như trên, ngày 07/3/2023, N điều khiển xe mô tô hiệu Wave Alpha màu xanh, biển số 71B2-868.43 từ thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đến thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Đến khoảng 07 giờ 40 phút cùng ngày, N thấy tiệm tạp hóa “Thanh Vân” của chị Phan Thị T tại Phường 8, thành phố Mỹ Tho nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. N dừng xe lại gần đó lấy băng keo màu đen đem theo sẳn dán che con số của biển số xe (dãy 5 số) rồi dắt xe vô hẻm dựng, vào quán cà phê trên vỉa hè đối diện tiệm của chị T uống nước. Sau đó, N băng qua đường đến gặp chị T hỏi mua 30 thẻ card Vinaphone, 30 thẻ card Viettel, 30 thẻ card Mobifone mỗi loại mệnh giá 100.000 đồng, 03 hộp bánh, 04 hộp nước yến, 01 kg trà rồi yêu cầu chị T đem qua chỗ N ngồi uống nước. Khi chị T đem đủ số lượng qua quán cà phê giao cho N thì N yêu cầu mua thêm 02 hộp nước yến nữa đem qua sẽ thanh toán tiền luôn. Tưởng thật, chị T đi về tiệm lấy nước yến, N liền chiếm đoạt 90 thẻ card đi vào hẻm lấy xe tẩu thoát; riêng bánh, nước yến, trà N để lại trên bàn. Theo N khai, sau đó chạy đến bờ kè thuộc Phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang dừng lại tháo băng keo dán biển số ra, mặc thêm áo bên ngoài rồi điều khiển xe đem 90 card điện thoại đến tiệm điện thoại “Anh Thư” ở thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre bán lại cho chị Nguyễn Thị Hồng S với giá 8.100.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết. Sau khi chị T về tiệm lấy nước yến quay lại thì không thấy N cùng card điện thoại, biết bị lừa nên chị T đến Công an Phường 8 trình báo sự việc. Đến ngày 13/3/2023 N bị bắt giữ để điều tra.

Bản kết luật định giá số 220 ngày 20/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Mỹ Tho kết luận: 30 thẻ card Vinaphone, 30 thẻ card Viettel, 30 thẻ card Mobiphone, mỗi thẻ mệnh giá 100.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 8.634.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 77/CT-VKSMT ngày 05/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đã truy tố Trần Văn N để xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự (BLHS).

*Tại phiên tòa:

-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Văn N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự; Phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Về hình phạt: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 174; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: ghi nhận bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 71B2-868.43 và giấy chứng nhận đăng ký xe; Tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm, 01 cuộn băng keo, 01 áo thun, 01 áo sơ mi, 01 quần Jean, 01 đôi dép.

-Bị cáo N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng đã nêu, không bào chữa về hành vi phạm tội, xin cho vợ được nhận lại xe làm phương tiện đi thăm nuôi bị cáo. Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để sớm được trở về quê hương.

-Bà T: xin được nhận lại chiếc xe mô tô, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt do bị cáo đã lớn tuổi, có bệnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi N vụ liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được, đã được Hội đồng xét xử thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Vào ngày 09/02/2023 và ngày 07/3/2023 Trần Văn N đã thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt 150 thẻ card điện thoại các loại có mệnh giá 100.000 đồng, 200.000 đồng trên địa bàn thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang của bà Hồ Thị L và chị Phan Thị T với tổng giá trị là 20.146.000 đồng.

Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm d khoản 2 Điều 174 BLHS. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ñaõ trực tiếp xaâm haïi ñeán taøi saûn cuûa người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gaây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lừa đảo để lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật sẽ bị trừng trị nghiêm khắc nhưng chỉ vì lười lao động, có ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu cá nhân nên bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm, vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[3] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

[4] Tình tiết giảm nhẹ: tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại xong cho các bị hại là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Đối với 150 thẻ card điện thoại mà bị cáo chiếm đoạt của bà L và chị T sau đó bán cho chị Sương, sau khi mua chị Sương đã bán lại hết cho khách nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, vợ bị cáo N đã bồi thường cho bà Hồ Thị L số tiền 11.500.000 đồng, bồi thường cho chị Phan Thị T số tiền 8.600.000 đồng, bà L và chị T không yêu cầu bồi thường gì thêm nên cần ghi nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

Chiếc xe mô tô biển số xxxx nhãn hiệu Honda loại Wave màu xanh-đen- bạc, số khung RLHHC1259FY188553, số máy HC12E7188663 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Văn N. Đây là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Các tài sản còn lại đã cũ, hư hỏng cần tịch thu tiêu hủy gồm: 01 mũ bảo hiểm màu trắng, trên nón có chữ HEAD FATA AC02; 01 cuộn băng keo màu đen;

01 áo thun sọc ngang màu vàng-xám-trắng có chữ Fashion; 01 quần Jean màu xanh có chữ Blue; 01 áo sơ mi ngắn tay sọc caro xanh-vàng có chữ Foxfire; 01 đôi dép bằng nhựa màu đen có chữ Asia sports.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[9] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Về hình phạt:

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 174; Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn N 03 (Ba) năm tù . Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 13/3/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận các bị hại đã được bồi thường, không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 BLHS. Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô biển số xxxx nhãn hiệu Honda loại Wave, màu xanh-đen-bạc, số khung RLHHC1259FY188553, số máy HC12E7188663 và giấy chứng nhận đăng ký xe tên Trần Văn N.

Tịch thu tiêu hủy: 01 mũ bảo hiểm màu trắng, trên nón có chữ HEAD FATA AC02; 01 cuộn băng keo màu đen; 01 áo thun sọc ngang màu vàng-xám-trắng có chữ Fashion; 01 quần Jean màu xanh có chữ Blue; 01 áo sơ mi ngắn tay sọc caro xanh-vàng có chữ Foxfire; 01 đôi dép bằng nhựa màu đen có chữ Asia sports.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/7/2023)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bà Thúy có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, N vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 87/2023/HSST

Số hiệu:87/2023/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về