Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 846/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 846/2023/HS-PT NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 935/2023/TLHS-PT ngày 05 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Ngô Nhật L, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án số 30/2023/HS-ST ngày 05-7-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

- Bị cáo kháng cáo:

Ngô Nhật L sinh ngày 08-7-1997; nơi cư trú: thôn T, xã Đ, huyện Ư, thành phố Hà Nội; địa chỉ nơi ở: số 2x/xx N, phường Ô, quận Đ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Ngô Mạnh H và bà Trịnh Thị Đ; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam ngày 27/10/2022; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Chu Thanh N - Văn phòng luật sư C, Đoàn Luật sư tỉnh Hải Dương; có mặt.

- Bị hại: chị Bùi Thị H sinh năm 1989; trú tại: khu dân cư Đ, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đầu tháng 7/2022, Ngô Nhật L truy cập vào mạng Internet thấy website: “subngon24h.net” cung cấp các dịch vụ tăng lượt theo dõi, bình luận trên Facebook cá nhân. Do thường xuyên truy cập vào mạng xã hội Facebook nên L biết nhiều người bán hàng như quần áo, giày dép, mỹ phẩm… thông qua Facebook có nhu cầu làm các dịch vụ tăng lượt theo dõi, bình luận để nhiều người sử dụng Facebook khác biết và đặt mua hàng, nên đã sử dụng tài khoản Facebook tên “Ngô Nhật L” của mình để đưa ra các thông tin về việc nhận làm dịch vụ tăng lượt theo dõi, bình luận trên Facebook.

Ngày 04/7/2022, chị Bùi Thị H là người buôn bán quần áo, truy cập mạng xã hội Facebook đọc được các quảng cáo trên Facebook của L nên đã nhắn tin Facebook cho L để nhờ L tăng lượt người theo dõi trên Facebook “Hue Bui” của chị H, L nói chi phí là 100.000 đồng/1.000 lượt người theo dõi và chuyển tiền trước đến tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0851000039931 đứng tên Trần Thị Thu Uyên (là bạn gái của L), chị H đồng ý. Vào cùng ngày, chị H sử dụng ứng dụng chuyển tiền Internetbanking trên điện thoại di động chuyển 850.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Bidv số 46110000368276 của chị H đến tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0851000039931 của chị Uyên. Chị Uyên đã rút 850.000 đồng đưa cho L. Sau đó, L đã đến gặp 01 người đàn ông giới thiệu làm việc cho website: “subngon24h.net” (không xác định được nhân thân, lai lịch) và giao cho người này 500.000 đồng, thông tin tài khoản Facebook của chị H để nhờ người này làm dịch vụ tăng lượt theo dõi Facebook của chị H, Facebook của chị H đã nhận được lượt theo dõi tăng từ 7.000 lượt lên 16.817 lượt.

Trong thời gian từ ngày 29/7/2022 đến ngày 14/10/2022, do cần tiền để thanh toán tiền ăn uống, đi lại và mua sắm đồ dùng sinh hoạt cá nhân nên L đưa ra thông tin gian dối với chị H về việc L nhận làm các dịch vụ Facebook và nhận 1.190.600.000 đồng của chị H chi tiêu cá nhân, cụ thể như sau:

Từ ngày 29/7/2022 đến ngày 31/7/2022, L sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro max lắp sim số 0384670000 nhắn tin Facebook với chị H đưa ra thông tin có các gói dịch vụ như tự động bán hàng thông qua Facebook, dọn dẹp và làm sạch Facebook với tổng chi phí là 29.700.000 đồng, chị H đồng ý mua và sử dụng ứng dụng chuyển tiền Internetbanking trên điện thoại di động chuyển 04 lần với tổng số tiền là 29.700.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Bidv số 46110000368276 của chị H đến tài khoản ngân hàng Sacombank số 020053906975 của L. Nhận được tiền, L không nhờ ai làm các dịch vụ Facebook cho chị H mà chuyển khoản 29.700.000 đồng chi tiêu cá nhân.

Từ ngày 01/8/2022 đến ngày 30/8/2022, L sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro max lắp sim số 0384670000 nhắn tin Facebook với chị H đưa ra thông tin thu phí cài đặt ứng dụng dọn dẹp và làm sạch Facebook, phí cài đặt ứng dụng tự động bán hàng thông qua Facebook, ứng dụng tự động trả lời tin nhắn Facebook và phí cài ứng dụng, ứng dụng tự động tương tác và phí cài ứng dụng, ứng dụng bảo mật Facebook và phí cài ứng dụng với tổng chi phí là 652.360.000 đồng, chị H đồng ý mua, trả phí và sử dụng ứng dụng chuyển tiền Internetbanking trên điện thoại di động chuyển 37 lần với tổng số tiền là 611.590.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Bidv số 46110000xxxxxx của chị H đến tài khoản ngân hàng Sacombank số 020053xxxxxx của L; chuyển 37.400.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Mbbank số 22888xxxxxx của chị U và giao 3.400.000 đồng cho anh Dương Văn H, sinh năm 1990, trú tại: khu dân cư Đ, phường A, thành phố C (chồng chị H) nhờ anh H chuyển tiền cho L, anh H đồng ý và sử dụng ứng dụng chuyển tiền Internetbanking trên điện thoại di động chuyển 3.400.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Bidv số 46110000xxxxxx của anh H đến tài khoản ngân hàng Sacombank số 020053xxxxxx của L. Nhận được tiền, L không nhờ ai làm các dịch vụ Facebook cho chị H mà sử dụng tiền như sau: chuyển 40.000.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Techcombank số 19034451xxxxxx của anh Trần Ngọc H, trú tại: 1xx T, phường M, thành phố N để trả tiền thuê xe ôtô nhãn hiệu Vinfast Lux-A biển số 14A-xxx.xx của anh H; chuyển 65.000.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Mbank số 1880123xxxxxx của bạn là anh Tô Văn B, trú tại: thôn , xã N, huyện Đ, thành phố Hà Nội và bảo anh B đưa cho L 65.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân; chuyển 26.000.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0851000039931 của chị Uyên và bảo chị Uyên đưa cho L 26.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân; chuyển 14.403.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Viettinbank số 117002xxxxxx của anh Vũ Hùng S, trú tại: phố L, phường B, quận H, thành phố Hà Nội để mua nhẫn vàng, sau đó do hết tiền nên L đã bán cho 01 người đàn ông không xác định được nhân thân, lai lịch; chuyển 24.403.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Techcombank số 19035200xxxxxx của anh Trần Phạm Gia B, trú tại: phố H, phường Q, quận H, thành phố Hà Nội để trả tiền mua quần áo; chuyển 10.000.000 đồng đến tài khoản ngân hàng MB số 0347xxxxxx của anh Nguyễn Anh T, trú tại: thôn P, thị trấn P, huyện L, tỉnh Bắc Giang để trả tiền mua quần áo; số tiền còn lại là 472.554.000 đồng, L chuyển khoản chi tiêu cá nhân như mua nước hoa, vòng trầm, thanh toán tiền ăn uống, đổ xăng, nạp tiền điện thoại.

Từ ngày 01/9/2022 đến ngày 30/9/2022, L sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro max lắp sim số 038467xxxx nhắn tin Facebook với chị H đưa ra thông tin thu phí cài đặt các ứng dụng Facebook, kiểm tra lỗi Facebook, tạo đường dẫn Facebook, gia hạn ứng dụng, hoàn thành và bàn giao ứng dụng Facebook với tổng chi phí là 353.000.000 đồng, chị H đồng ý mua, trả phí và sử dụng ứng dụng chuyển tiền Internetbanking trên điện thoại di động chuyển 38 lần với tổng số tiền là 353.000.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Bidv số 46110000xxxxxx của chị H đến tài khoản ngân hàng Sacombank số 020053xxxxxx của L. Nhận được tiền, L không nhờ ai làm các dịch vụ Facebook cho chị H mà sử dụng tiền như sau: chuyển 40.000.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Bidv số 21610000xxxxxx của anh Trần Quốc T, trú tại: đường K, phường D, quận C, thành phố Hà Nội để trả tiền thuê xe ôtô tự lái; chuyển 28.500.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Techcombank số 1903859xxxxxx của chị Đoàn Thị Lan A, trú tại: thôn K, xã A, huyện N để mua nhẫn vàng, sau đó do hết tiền nên L đã bán cho 01 người đàn ông không xác định được nhân thân, lai lịch; chuyển 7.250.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0851000039931 của chị U và bảo chị U đưa cho L 7.250.000 đồng để chi tiêu cá nhân; số tiền còn lại là 277.250.000 đồng, L chuyển khoản chi tiêu cá nhân như mua nước hoa, vòng trầm, thanh toán tiền ăn uống, đổ xăng, nạp tiền điện thoại.

Từ ngày 02/10/2022 đến ngày 04/10/2022, L sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro max lắp sim số 038467xxxx nhắn tin Facebook với chị H đưa ra thông tin thu phí xác thực bảo mật tài khoản Facebook, vận hành Facebook, hoàn thành cài đặt và nhận mã xác thực tài khoản Facebook với số tiền là 155.600.000 đồng, chị H đồng ý trả phí và sử dụng ứng dụng chuyển tiền Internetbanking trên điện thoại di động chuyển 13 lần với tổng số tiền là 155.600.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Bidv số 46110000xxxxxx của chị H đến tài khoản ngân hàng Sacombank số 020053xxxxxx của L. Nhận được tiền, L không nhờ ai làm các dịch vụ Facebook cho chị H mà sử dụng tiền như sau: chuyển 10.270.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Sacombank số 020053xxxxxx của L đến tài khoản ngân hàng MSB số 03386019xxxxxx của anh Đỗ Viết T, sinh năm 1990, trú tại: đường L, phường M, quận N, thành phố Hà Nội để trả tiền thuê nhà; số tiền còn lại là 145.330.000 đồng, L chuyển khoản chi tiêu cá nhân như mua nước hoa, vòng trầm, thanh toán tiền ăn uống, đổ xăng, nạp tiền điện thoại.

Ngày 15/10/2022, chị U thấy L thường xuyên nhắn tin với Facebook của chị H nên đã kết bạn, nhắn tin qua Facebook với chị H xin số điện thoại, kết bạn Zalo với chị H hỏi chuyện thì được chị H nói đưa tiền cho L mua, trả phí các gói dịch vụ trên mạng xã hội Facebook nhưng L chưa thực hiện được, chị U đã bảo chị H ngừng chuyển tiền cho L và hỏi L thì L không nói gì. Đến ngày 25/10/2022, chị U nói chuyện Zalo với chị H thì được biết chị H đang yêu cầu L trả lại tiền nên đã hỏi L và L đã nói cho chị U về việc nhận tiền của chị H nhưng không chuyển cho ai làm các dịch vụ Facebook mà sử dụng để chi tiêu cá nhân hết, chị U đã động viên L đến Cơ quan Công an đầu thú.

Ngày 26/10/2022, chị H kiểm tra Facebook cá nhân xác định không có các dịch vụ theo như những thông tin L đưa ra nên đã gửi đơn tố cáo L. Đến ngày 26/10/2022, L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương để đầu thú.

Trong quá trình điều tra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại.

Tại Bản án số 30/2023/HS-ST ngày 05-7-2023, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 38; các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt Ngô Nhật L 10 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27-10-2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định việc xử lí vật chứng và án phí theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10-7-2023, bị cáo Ngô Nhật L kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo đề nghị xem xét giảm hình phạt, với lí do bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại.

Tại phiên tòa, gia đình bị cáo nộp tài liệu mới thể hiện việc bị cáo có ông nội, ông ngoại đã có thành tích chiến đấu và phục chiến đấu, được tặng Huân chương kháng chiến, có bác là liệt sĩ.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị xem xét chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nhất trí với ý kiến của Kiểm sát viên, đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Mặc dù không có khả năng làm các dịch vụ tăng lượt người theo dõi thông qua mạng xã hội (Facebook), nhưng từ ngày 29/7/2022 đến ngày 14/10/2022, Ngô Nhật L đã có hành vi gian dối hứa hẹn với chị Bùi Thị H là người bán hàng thông qua mạng xã hội là có thể làm các dịch vụ tăng lượt người theo dõi, để tăng số lượng người đặt mua hàng của chị H; chiếm đoạt của bị hại tổng số 1.190.600.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án Ngô Nhật L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng;

bị cáo còn phạm vào tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo 10 năm tù.

Ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại, bị hại đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo; thì tại phiên tòa, gia đình bị cáo đã nộp các tài liệu thể hiện việc bị cáo có ông nội, ông ngoại có thành tích trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và được tặng thưởng Huân chương; có bác là liệt sĩ; đây là tình tiết giảm nhẹ mới đối với bị cáo.

Xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết của vụ án trước và sau khi xét xử sơ thẩm, nhân thân của bị cáo, xét thấy mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo, ý kiến của kiểm sát viên và luật sư giảm hình phạt cho bị cáo theo quy định.

[2]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

[3]. Bị cáo không phải nộp án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Sửa Bản án số 30/2023/HS-ST ngày 05-7-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương như sau:

1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 38; các điểm b và s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt Ngô Nhật L 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27-10-2022.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 846/2023/HS-PT

Số hiệu:846/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về